A cake with a hint of poison

.

“It was a bright cold day in April, and the clocks were striking thirteen.”
-1984, George Orwell

.

Series review.

Dù lâu rồi tôi không viết review phim, tôi vẫn xem phim đều, dù hơi khó tìm được phim hay và chưa xem khi tôi đã không còn xem phim từ hollywood sau 2015. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng phá lệ. Ví dụ vừa rồi tôi xem Fallout, một phần do tôi vẫn muốn chơi game này từ lâu mà chưa tìm được dịp – Fallout là một game nhập vai open world hậu tận thế bom nguyên tử cùng hãng với Skyrim, một game mà tôi rất thích và đã chơi lại nhiều lần – và một phần là do rating cao ngất ngưởng, 8.6 imdb, và rất nhiều fan của game đã khen phim giữ được nguyên tinh thần của game.

Fallout (2024)

200 năm sau thảm họa hạt nhân toàn cầu, con người sống trong các hầm khép kín, đầy đủ tiện nghi. Phim bắt đầu với đám cưới của nữ chính Lucy với một chú rể từ hầm bên cạnh. Chỉ vừa xem đến đây thôi, tôi đã biết chuyện gì xảy ra. Quả đúng như vậy, khoảng 10 phút sau chúng ta đã được xem lại một phần của thánh kinh thời đại mới, lần thứ n : cô dâu diverse girl cầm dao chọc chết chú rể thanh niên da trắng. Really ? – tôi nghĩ. May thay phim quả thực được như một số review nói : nó giữ được màu sắc, world setting, và cả kiểu hài hước đen đặc trưng hãng game Bethesda. Trong phim có những con quái vật của game, những kẻ biến dị mutant, những kẻ ăn thịt người, những hội cult, những lãnh địa nhỏ luôn xung đột gây chiến lẫn nhau. Còn gì nữa không nhỉ ? Có vài người khen ngợi nữ nhân vật chính không phải là strong woman, cô nữ tính hơn “vì cô đánh tay đôi không lại một số người và quái vật”. “Thật là một thay đổi tươi mới đến từ những nhà làm phim biết tôn trọng nguyên tác.”

Really ??

Thật ra Fallout là series khiến tôi thoát lười mà viết post này. Nó là một hồi chuông thầm lặng, nhắc nhở thế giới rằng “New level has been achieved.” Đúng là Fallout đã chuyển thể bối cảnh của game sang phim rất tốt. Nhưng chẳng lẽ những chung cư bỏ hoang, những cái máy nuke-cola, hay thành phố làm từ rác lại quan trọng đến thế ?? Câu chuyện, nhân vật, phát triển tính cách, kịch bản, tinh thần của phim ? Nếu bỏ qua mảng world setting thành công của phim, thứ mà thật ra chỉ cần làm đúng theo game là được, Fallout là một series đần độn được viết bởi những biên kịch narcissistic với tài năng của một đứa bé lên 10 đã bị đầu độc từ nhỏ bởi wokism, như tất cả các phim Hollywood gần đây. Thử đoán cảnh cuối của series ? Diverse Lucy cầm súng dí mặt bố Hank, con lợn độc ác dối trá, tất nhiên là da trắng, mặc dù 3 phút trước cô còn quyết tử để cứu bố, nhưng một very strong, very black woman khác, người yêu của mẹ cô, tuy cũng là kẻ giết người hàng loạt, đã làm cô thức tỉnh. Cô tha cho bố cô vì cô là người đạo đức, sau đó cô ôm lấy người yêu cô, một kẻ cơ hội đã giết nhiều người, nhưng được cái da đen.

Fallout đầy rẫy những chi tiết nhồi sọ phổ thông kiểu hollywood như vậy. Để tuyến truyện được thông suốt, biên kịch cho các nhân vật thực hiện các hành động phi lý, hoặc kể lại qua các đoạn thoại thật nhanh để người xem không kịp nghĩ. Ví dụ mẹ Lucy, một phụ nữ được sinh ra và lớn lên trong hầm, đẻ hai con với chồng Hank, nhưng chỉ vì thấy “lượng nước dưới đất ít đi”, liền quyết định ngay chồng là kẻ dối trá, dắt hai con, cả hai đứa đều dưới 5 tuổi, lên mặt đất để sống, dù biết mặt đất đầy phóng xạ, quái vật, những kẻ ăn thịt người ? Và thòi lên mặt đất là biến ngay thành lesbian, cùng dắt nhau đến thiên đường sinh sống, nơi được miêu tả bằng mấy ruộng ngô, thứ không thể nào không nhiễm phóng xạ và người trong hầm không thể ăn, nơi nước cũng không thể uống ? Thử đoán xem cái thành phố thiên đường này tên là gì ? “New California”. Nhiều podcaster đã nói về sự ái kỷ, hoang tưởng của hollywood, và đây lại là một bằng chứng.

Kẻ ác trong fallout cũng là những nhân vật không thể đần độn hơn. Trong trường hợp của game, theo tôi biết thì đơn giản là do hai cường quốc hạt nhân mâu thuẫn và nuke nhau. Trong phim, tất nhiên những đứa trẻ – biên kịch của chúng ta không chịu như vậy. Kẻ ác phải là những kẻ ngồi trong phòng kín, dưới ánh sáng mờ mờ, khuôn mặt nguy hiểm và gầm gè thốt ra những câu y như trong tưởng tượng của một học sinh tiểu học khi nó nghĩ về cái ác. Nhưng nghe kỹ thì nó không có tí logic, common sense nào. Một công ty lớn đến nỗi đủ sức gây ra chiến tranh hạt nhân mà không ai biết ? Vì để kiếm nhiều tiền, phải thủ tiêu công nghệ tạo năng lượng vô hạn, và biến trái đất thành hoang tàn, không sống được ? Lý do là con người luôn chia rẽ và gây chiến, nên tốt nhất là giết hết đi, để chỉ còn “chúng ta” ? Sau đó, trong “chúng ta” lại “may the best man wins”. Câu nào phọt ra cũng như từ một đứa thiểu năng trí tuệ.

Nồng độ ngu dốt của Fallout đậm đặc đến nỗi khiến tôi cảm giác như vừa uống cà phê. Chẳng lẽ công cuộc tẩy não đại đa số dân chúng đã đi xa đến thế ? Mặt bằng chung của phim ảnh hollywood đã rác rưởi và thảm hại đến nỗi chỉ cần nhân vật nữ chính không đấm bay một gã đàn ông to gấp đôi đã là biên kịch tài ba ? Chỉ cần là da đen thì dù giết bao nhiêu người cũng là người tốt, vẫn là anh hùng ? Chỉ cần không thay đổi hoàn toàn câu chuyện, là đã được gần bằng với Forrest Gump ? Còn propaganda, phi logic, deny common sense, alter reality, là sự tất nhiên phải chấp nhận ?

Fallout ấn tượng với tôi không kém gì Joker trước đây. Nó như một cái bánh đẹp mỹ miều. Dân chúng đã ăn quá nhiều rác có độc, giờ được cho một cái bánh có độc, cảm thấy hạnh phúc.

.

The fall of the house of Usher (2023)

Tôi phá lệ xem phim này, vì đạo diễn của nó, Mike Flanagan, người chuyên làm series kinh dị, đã có những tác phẩm tuyệt vời như The haunting of Hill house, The haunting of Bly Manor, và Midnight Mass. Cả ba đều trong thời kỳ của woke. Ông làm tôi không thể thất vọng hơn với Sự suy tàn của dòng họ Usher, chuyển thể tác phẩm kinh điển cùng tên của Edgar Allan Poe. Nó nên được gọi là Sự tha hóa, bán rẻ nhân cách của Mike Flanagan. Một ví dụ rõ ràng khác về Hollywood hiện nay : được thừa kế một di sản văn hóa đồ sộ, có điều kiện để tạo ra những bộ phim hay, nhưng sự bệnh hoạn về tư tưởng đã đầu độc tất cả. Thử đoán cảnh cuối của phim ?

Một chút suy nghĩ thêm về Hollywood. Tôi không hiểu sao nó vẫn tồn tại được, với tư cách là một mảng lớn của văn hóa của một nước. Nó thực sự là một phần của một death cult điển hình. Nó căm ghét quá khứ, thay đổi quá khứ, khuyến khích một bộ phận lớn, đa số của xã hội thù hận một bộ phận lớn khá, chia rẻ sắc tộc, tuyên truyền phá hủy các yếu tố cơ bản cấu thành xã hội. Đây có phải là một trong những nhược điểm trọng yếu của xã hội dân chủ ?

May là tôi chỉ phá lệ xem thử 2 woke series. Phần lớn thời gian tôi xem các phim hollywood khoảng những năm 2000, một số phim hàn và nhật.

Battlestar Galactica

Xem lại lần hai, cả 4 seasons. Hấp dẫn không kém lần đầu, không hổ danh là một trong những sci-fi series hay nhất mọi thời đại. Hầu hết các nhân vật chính đều tuyệt. Các cô gái xinh đẹp, mạnh mẽ, nguy hiểm, toát ra cái đáng yêu kiểu Mỹ mà giờ có lẽ đã tuyệt chủng. Các anh đàn ông vẫn còn ở cái thời kỳ ăn nói nhỏ nhẹ, suy nghĩ kỹ trước khi nói, hành động logic và quyết liệt.

The mentalist

Cũng xem lại lần hai, 6/7 seasons. Đây là series làm tôi thấy yêu California, một vùng đất tuyệt đẹp, lúc nào cũng ngập tràn ánh nắng. Chỉ cần bật một tập lên xem là thấy thư giãn. 4 season đầu tuyệt vời, 3 season cuối hơi đuối. Chemistry của Jane và Lisbon đầy dần theo năm tháng. Lisbon là kiểu strong woman theo đúng nghĩa của từ này, luôn là chỗ dựa cho tất cả mọi người, nhưng chưa bao giờ khiến người khác thấy nhỏ bé hay khó chịu, hòa hợp với Jane sắc sảo nhưng đầy thương tổn. The mentalist là một detective series kiểu zen, đúng kiểu simple is best.

24

Bộ này tôi đã xem từ lâu nhưng vẫn nhớ. Series chống khủng bố thời gian thực cực kỳ hấp dẫn. Tất cả sự việc diễn ra trong 24 giờ, mỗi giờ là 1 tập. Dù sang phần 3 đã yếu đi một ít nhưng 2 season đầu không có đối thủ cùng loại. Die hard cũng không bằng.

Một số phim nhật, phần lớn có Ryuhei Matsuda

0.5 no Otoko (2023)

Một series về hikikomori. Ngắn, nhẹ nhàng, dễ thương.

Towako Omameda and Her Three Ex-husbands (2021)

Tình cảm hài hước, nhẹ nhàng. Mẹ đơn thân Omameda sống với cô con gái 15 tuổi, nhưng cả ba anh chồng cũ đều suốt ngày đến nhà vì những lý do khác nhau. Ông ngoại thì nói : “lần đầu là bi kịch, lần hai là hài kịch, còn lần ba là ảo tưởng.” Vấn đề là cả 4 người đều rất hợp với nhau. Không quá hay, nhưng dễ thương.

Quartet (2017)

Tứ tấu. Cũng là một bộ phim hài hước, nhẹ nhàng về 4 nhạc công lạ cùng nhau dọn đến một ngôi nhà ở tỉnh để lập ban nhạc. Nhưng còn dễ thương hơn Omameda, chủ yếu vì các diễn viên đều có nét cuốn hút riêng. Nhật có một dòng phim hiện thực nói về những người ở tầng lớp dưới của xã hội, phim này có thể liệt vào đó, dù họ không hẳn là nghèo. Một câu chuyện về sự ấm áp và sức nâng đỡ tâm hồn của tình bạn. dù tôi nghĩ nó có phần cổ tích khi người ta đã bước qua tuổi 40. Rất đáng xem.

Mahoro ekimae bangaichi (2013)

2 seasons. Chuyện hai chàng giúp việc. Phim này tôi muốn xem từ lâu rồi nhưng không chỗ nào có. Chẳng hiểu thế nào mà gần đây tự nhiên tìm được một trang xem phim lậu của malaysia. Câu chuyện đơn giản, có hai anh chàng hành nghề giúp việc, ai gọi gì cũng làm, ở một thị trấn nhỏ hư cấu tên Mahoro. Hai anh này cực kỳ nghèo, đói ăn, thú vui duy nhất là hút thuốc, và đều có quá khứ không rõ ràng. Eita Nagayama và Ryuhei Matsuda tỏa sáng rực rỡ trong quần áo bẩn thỉu và nhà cửa tồi tàn. Có gì đó hơi giống với Jane trong Mentalist, ở trong một cái gác xép vốn dùng để đồ cũ, không có lò sưởi, thật ra là chả có gì cả ngoài một ấm trà, một cái cốc, một cái áo sơ mi và một cái vest, nhưng lần nào cũng làm tôi thấy thán phục. Một trong những phim hay nhất của dòng phim nói trên.

First love : Hatsu koi (2022)

Tôi xem phim này vì có Hikari Mitsushima. Và Takeru Satoh cũng là một diễn viên tốt. Mặc dù mô tuýp mất trí nhớ đã khai thác quá nhiều, Hatsu koi không phải là một series tồi. Setting ở một thị trấn miền bắc lạnh giá của Nhật mang đến một hương vị mới, và tuy chuyện tình của hai cô cậu thiếu niên có phần nhạt nhẽo, câu chuyện của họ 20 năm sau không như vậy. Nữ chính, Yae Noguchi, là điểm tập trung của phim. Hikari Mitsushima vẫn đóng những vai xinh đẹp, mong manh và đã trải qua nhiều bất hạnh, và cô ở tuổi 40 có phần còn hợp với kiểu vai này hơn là khi cô còn trẻ như những vai trong Quartet hay Chúng ta vẫn sống. Đây có thể nói là một series hay, hơi buồn, dù tôi đã bỏ qua nhiều phân đoạn tình tứ khá sến xẩm của hai nhân vật chính khi còn trẻ.

Soredemo, ikite yuku (2011)

Chúng ta vẫn sống. Đây là câu chuyện về hai gia đình, một mất đứa con gái nhỏ, còn một có đứa con trai là hung thủ giết cô bé. Mặc dù phim có Hikari và Eita, tôi nghĩ không ai có thể chịu nổi 50% thời lượng phim là khóc, tất cả các nhân vật đều khóc, lần lượt. Tôi chỉ chịu nổi vài tập.

Rebooting : brush up life (2023)

Sci-fi, drama

Phim này kể về cuộc đời của Asami, một cô gái tỉnh lẻ với cuộc đời bình thường. Cô hơn 30 tuổi, làm ở văn phòng hành chính của tỉnh, vẫn ở với bố mẹ và em gái, và có hai cô bạn thân thường tụ tập sau giờ làm. Một hôm cô bị xe tông chết. Nhân viên chuyển kiếp nói kiếp sau cô sẽ làm một con tê tê, hoặc có thể sống lại kiếp vừa rồi. Nếu tích lũy đủ công đức, có thể sẽ được đầu thai thành người. Asami chọn “sống lại”.

Xem phim này tôi có hai liên tưởng.

Một là Stein;gate. Trong bộ này, sau khi nv chính phát minh ra cách gửi thông tin về quá khứ – một dạng du hành thời gian, thì người yêu bị tai nạn chết ngay trước mặt anh này. Những tưởng với quyền năng của time travel, anh có thể cứu cô gái, nhưng không, mỗi lần gửi thông tin về quá khứ là timeline lại thay đổi, tai nạn cũ không xảy ra nữa; thay vào đó, một tai nạn mới xuất hiện. Cô gái chết theo vô số cách khác nhau, nhưng lần nào cũng chết trước mặt nhân vật chính, người càng cố gắng càng đau khổ.

Brush up life cũng có một chút cái cảm giác bất lực cùng cực trước số phận như Stein;gate, nhưng chỉ một chút. Có lẽ biên kịch của bộ này là phụ nữ nên những trải nghiệm time travel không quyết liệt và cơ hội như nhiều phim khác. Nó đơn giản và nhẹ nhàng. Như kiểu khi nghĩ đến “công đức”, Asami không nghĩ đến những việc đao to búa lớn như chơi chứng khoán hoặc sổ xố để kiếm tiền, rồi xây trường học cho trẻ con Châu Phi, hay ngăn chặn thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Cô nghĩ đến những chuyện “đàn bà” hơn mà cũng không hề nhỏ nhặt như làm cách nào để cô giáo tiểu học của mình không ngoại tình với bố Rena, một cô bé học cùng lớp mẫu giáo, dẫn đến một gia đình tan vỡ. Hay có nên nói thẳng với cậu bạn cùng lớp, kẻ quyết tâm theo đuổi nghiệp ca hát, rằng cậu ấy chẳng có chút tài năng nào, và sẽ thất bại ?

Mỗi lần “sống lại”, Asami đều chỉ dùng cả cuộc đời mình để làm những việc như vậy. Ngoài ra thì cô vẫn sống như những người khác, phần lớn thời gian đi làm, ngày nghỉ thì ở nhà chơi với bố mẹ hoặc đi hát karaoke với bạn.

Khi xem những “vòng đời” này, tôi không khỏi cảm thấy thương xót phần nào cho cuộc sống tù đọng của người Nhật. Họ như kiểu những con kiến đã quá quen thuộc với cái hộp của mình, đến nỗi ngay cả một trải nghiệm siêu thực như tái sinh cũng không thể làm cuộc đời họ có những biến chuyển lớn.

Ở một khía cạnh khác, tôi lại cảm thấy thán phục khả năng cảm thấy sự trọn vẹn và ý nghĩa của họ, ngay cả khi làm những việc bình thường nhất, hưởng thụ những thú vui đơn giản nhất. Tham, sân, si không hề có chút dấu vết. Khả năng cảm thấy biết ơn, khả năng trân trọng những niềm vui nhỏ. Nó làm tôi nhớ lại trong Koto (Cố đô) của Yasunari Kawabata, có chuyện hai chị em sinh đôi bị tách rời từ nhỏ, sống ở hai nơi xa nhau nhưng cùng ở Kyoto. Cô chị được một gia đình nông dân nhận nuôi, cô lớn lên thành nông dân lam lũ, sau đó cô biết tin về cô em. Kể từ đó cứ vài tuần, khi có thời gian, cô lại đi bộ cả nửa ngày từ núi đến trung tâm Kyoto, chỉ để nhìn thấy em và hỏi thăm em mấy câu. Chỉ chuyện đó thôi là đủ để cô thấy hạnh phúc.

Trong brush up life cũng có những vẻ đẹp tương tự. Chết ở tuổi bốn mươi, chọn sống lại từ đầu, trải qua 40 năm đằng đẵng, cuối cùng chỉ để được ngồi cùng với ba cô bạn một lần, vừa uống trà vừa tám chuyện. Đây là kiểu cảm thức mỹ học mà tôi chỉ thấy duy nhất ở trong văn hóa Nhật, mono no aware (cảm thức mất mát), wabi (đà) và sabi (tịch). Con người đứng trước cái lạnh lẽo của số phận và cái vô cảm của thời gian, nhưng khác với văn hóa phương tây, không cảm thấy hư vô hoặc nhu cầu đi tìm ý nghĩa cuộc sống, mà họ chấp nhận nó, chung sống với nó, và sau đó tìm thấy vẻ đẹp của nó.

Trong Rebooting : brush up life, tôi tìm thấy khá nhiều khoảnh khắc như vậy. Đây có lẽ là phim Nhật hay nhất trong vài năm gần đây.

Tôi có xem vài phim Hàn nổi tiếng, rating cao. Cảm giác chung là chúng vừa có cái hay, vừa có nhiều cái dở.

My liberation diary (2022)

Phim về những người trẻ làm việc ở Seoul nhưng nhà ở xa tận làng quê, đi làm mỗi lần mất nhiều thời gian. Họ cô độc, bị giới hạn bởi tài chính, địa lý, thời gian, thiếu thốn tình yêu, phần lớn thời gian trong ngày họ làm việc trong môi trường công sở nhạt nhẽo và có phần độc hại. Phim này ý tưởng không phải là tồi, nhưng cách triển khai quá chậm và lặp đi lặp lại khiến tôi thấy chán nhanh. Một điểm lưu ý, đó là sự chậm lớn. Các nhân vật của phim Hàn bắt đầu thể hiện sự chậm lớn tương tự với phim Nhật. Cô chị cả 40 tuổi ế chồng suy nghĩ và cảm xúc như gái 30 tuổi vn, cậu hai 37 tuổi có những suy nghĩ non nớt và vô phương hướng như thanh niên 22 tuổi, còn cô út hơn 30 bắt đầu rung động và nói năng như một cô gái 18 tuổi với một anh chàng nghiện rượu, cựu xã hội đen, ít nói mắt lườm, người mà khán giả nên nghĩ là cool ngầu cho đến khi anh mở mồm kể về quá khứ và thú nhận rằng anh thấy cô bé già đáng sợ. Một series đáng nhẽ có thể hay nếu viết các nhân vật đúng tuổi và tương tác tốt hơn.

Cô đi mà lấy chồng tôi

Một series nổi tiếng với mô tuýp xuyên không, trà xanh, trợn mắt ngây thơ, tổng tài chung tình mét chín nhan nhản khắp nơi. Nó có giá trị giải trí, không có giá trị gì khác. Một điểm buồn cười khi xem là nữ diễn viên chính luôn đóng các vai cô gái trẻ tự lực phấn đấu, đạo đức tốt, thông minh nhưng ngoài đời cô nai tơ cũng già chát rồi và còn bám lấy một anh xã hội đen lừa đảo crypto, người đã vào tù cách đây không lâu làm cô mất nhiều công tẩy trắng.

My mister (2018)

Một phim nổi tiếng khác mà gần đây tôi mới xem. Nam chính bị vợ cắm sừng với sếp, được nữ chính là nhân viên part time trong công ty trợ giúp để đấu lại. Đây là một phim có thể nói là hay, có phần gay cấn, IU trong vai nữ chính thể hiện được sự nguy hiểm của phụ nữ khi không có gì để mất, lại thông minh và thủ đoạn, dần dần bị cảm hóa bởi một người chú tử tế. Ý tưởng cho rằng có thể đánh giá một người qua việc nghe trộm điện thoại 24/24 trong thời đại texting này khá là ngớ ngẩn. Phim này cũng bị vấy bẩn bởi đời thực, show biz hàn luôn là một sự giả tạo khổng lồ. Diễn viên nam chính luôn xây dựng hình tượng không đẹp trai, không xuất sắc nhưng đạo đức, yêu vợ thương con, bị lộ ra việc chơi gái và dùng ma túy, sau đó đã tự tử.

Reflect on late years

.

The love you never gave
I give to you

.

Gần đây trời hơi lạnh, mà khí lạnh dường như làm tôi mơ nhiều hơn bình thường. Tôi có một giấc mơ tương đối đặc biệt, loại giấc mơ khiến người ta tỉnh dậy trong sự tập trung chú ý hòng giữ lại nhiều nhất có thể, vì giấc mơ đó như một cục thạch đứng trên cái sàng lưới sắt sắc nhọn với những mắt to đùng, nó cứ tụt xuống và biến mất vào quên lãng nếu ta không nhanh tay bịt lỗ. Nó làm tôi muốn viết cái gì đó. Vả lại lâu rồi tôi không thực hành bài tập mindfulness nào.

Có một điều lạ rằng những giấc mơ của tôi đã thay đổi. Nó vẫn là những giấc mơ dài, rất dài với nhiều tình tiết, diễn biến, có cả những nút thắt và giải tỏa như một bộ phim hoặc một vở kịch, có nhiều đại cảnh rộng lớn và những góc nhìn di chuyển theo kiểu bay lượn trong không trung. Nhưng chúng không còn dễ hiểu. Hồi xưa khi mơ tôi luôn biết tại sao lại như vậy, tại sao những chuyện này lại xảy ra, tại sao tôi lại cảm thấy những điều này. Giờ chúng làm tôi ngạc nhiên bởi tính phức tạp của nó. Có những giấc mơ đặt riêng thì không thể hiểu, nhưng khi xếp ba bốn giấc lại thì một câu chuyện xuất hiện.

Well, cái giấc mơ nói đến ở trên tương đối kỳ quặc. Tôi cũng không nhớ được nhiều. Có một nhà ga dường như bỏ hoang ở trong một vùng khá khô cằn và bằng phẳng, đường ray cũ kỹ và vài đầu tàu chạy than kiểu cổ. Đường ray chạy về phía chân trời, hai bên đường có những cụm cây bụi hoang mạc. Cũng có một cô gái mắt đỏ và lồi. Tôi không rõ cô gái này có phải là quỷ, nhưng có vẻ không xấu xí như miêu tả. Một số chuyện xảy ra (irrelevant to this story), rồi tôi thấy mình bay ra khỏi nhà ga, lượn chậm rãi trong không gian hoang mạc mát lạnh.

Tôi biết mình đã chết. Tôi cảm thấy như thế nào ? Cảm giác đó hơi giống câu “dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy”, nếu bỏ phần đầu đi.

Trong giấc mơ, tôi suy nghĩ giống như khi tôi không mơ. Tôi nhớ lại bộ phim Sweet tooth. Nó là một series nửa zombie nửa fantasy, một loại virus cực độc xuất hiện, giết người lớn nhưng bào thai của những bà bầu thì không chết mà lại đột biến gen, khiến các em bé sinh ra có một phần của những con thú. Có một người đàn ông làm nghề quét dọn ở bệnh viện. Ông từng là một tiến sĩ sinh học nhưng sau đó liên tiếp thất bại trong cuộc sống và giờ hơn 40 tuổi sống cô đơn một mình. Khi đại dịch ập đến ông đã cứu một cậu bé có sừng hươu mới đẻ. Chính phủ và đám đông săn lùng những em bé này để nghiên cứu làm vacxin và để trả thù, vì thế ông ôm cậu bé chạy trốn vào rừng. Thông minh và khéo tay, ông đã tự xây được một khu nhà vườn ở sâu trong núi, có đầy đủ mọi thứ để nuôi cậu bé lớn.

Một thời gian sau, cái gì đến cũng phải đến. Một toán thợ săn người tìm thấy khu vườn của hai bố con. Ông bố phải hy sinh để cứu cậu bé. Khi cậu bé khóc lóc xin lỗi bố vì ham chơi dẫn đến tai họa, ông bố cười và nói cậu không có lỗi gì, bởi thời gian sống cùng cậu không những không phải là gánh nặng, mà còn là một hạnh phúc mà trước đây ông nằm mơ cũng không tưởng tượng ra được, và giờ ông chết không còn gì hối hận. Ông cảm ơn cậu bé đã cho ông chín năm đẹp nhất đời mình.

Bạn có thể thấy, tình yêu của ông dành cho đứa con nuôi đã trở thành xương sống của ông, một loại xương sống bằng titan. Đối với người ngoài, nó có thể là chuyện tầm thường. Đối với thế giới, giá trị của nó có thể chỉ ngang tầm một tấm thảm mà người ta có thể di giày lên bất cứ lúc nào họ thích, nhưng nói như Marcus Aurelius : “một viên ngọc là một viên ngọc, và lời nói của cả thế gian cũng chẳng thể làm nó bớt sáng hơn.”

Trong giấc mơ, trong đường lượn không có hồi kết, tôi nhớ lại hồi xưa tôi hay vào một forum nước ngoài. Trong đó có lần có một cái poll : “bạn sẽ làm gì nếu ngày tận thế sẽ đến sau 24 giờ ?” Hãy thử đoán câu trả lời phổ biến nhất ? Đó là “tôi sẽ đến và hiếp cô gái mà tôi thích”. Hoặc các version khác gần gần như vậy. Quite shocking, isn’t it ? Tuy vậy, nó không khó hiểu chút nào. Nếu tôi hồi đó là một kẻ ngu dốt hơn, hoặc bản năng hơn, hoặc thành thật hơn, có thể đó cũng sẽ là suy nghĩ của tôi. Và người ta luôn luôn có thể trở nên ngu dốt hơn, hoặc bản năng hơn.

Trong giấc mơ, hít vào đầy phổi cái lạnh của bầu trời hoang mạc, tôi nhớ lại một đoạn thoại của cô Cunk và Ricky Gervais :

Cunk : If you are an atheist, and you don’t believe in the after life…
Gervais : I don’t
Cunk : if you don’t believe in heaven and hell and all that, why don’t you go around murder and rape as much as you like ?
Gervais : I do
Cunk : what ?
Gervais : I do go around murder and rape as much as I like,
__________which is not at all

Câu hỏi là, từ lúc nào mà cái cảm giác hiện sinh thôi thúc người đàn ông đến và hiếp cô gái trong mơ đã tắt hẳn trong tôi ? Trong mơ, tôi vừa bay vừa nghĩ về những điều này, trong khi ngắm nhìn cái bóng của mình in dấu trên nền đất ánh vàng, cái màu vàng trông như là của nắng thu tháng chín. Tình yêu nam nữ ? Nó như những bông hoa thủy tinh mỏng dính, long lanh đầy màu sắc, bóp nhẹ vào là vỡ. Nó đến đấy, nhưng ham muốn đó không tắt. Chúng song hành cùng nhau và đôi khi chỉ là một. Từ lúc nào nó tắt ? Từ lúc nào mà việc yêu lại lớn lên và che lấp việc được yêu, làm cho nó hoàn toàn không còn cần thiết ; từ lúc nào mà tình yêu lại có thể trở nên vững chãi như một công trình với hàng nghìn móng bê tông, thứ chỉ cần nhắc đến thôi đã biết không có gì trong thực tại này có thể lật đổ ; từ lúc nào mà tình yêu không còn là bất khả, lại trở thành tất nhiên ; từ lúc nào nó trở nên vĩnh cửu, ít ra là đối với lịch sử của một con người, bất chấp thời gian, bất chấp cả số mệnh của cả kẻ yêu và kẻ được yêu ? Bởi tất cả kỳ vọng về nó không còn ở tương lai, mọi trái ngọt đều đã đủ đầy trong quá khứ, và mỗi giây phút của hiện tại sẽ chỉ là một giọt mật, nhỏ vào nó không ngừng.

Khi tôi nghĩ về những điều này, một câu hỏi nảy ra, không phải là một câu hỏi với một cá nhân, mà với tất cả con người thu giảm lại như một cá nhân : nếu thật sự thời gian của anh đã hết, những hồi chuông cuối cùng của anh đã điểm, anh sẽ làm gì ? Có thật sự là anh sẽ chỉ thỏa mãn một dục vọng nào đó, khi anh biết rõ rằng đây là những lần cuối cùng anh có thể ngắm nhìn một đóa hoa quỳnh nở trong đêm tối, những lần cuối cùng anh có thể ra ban công để ngắm nhìn mặt trời mọc lên từ phương đông, phản chiếu ánh sáng trên những con sông, hay đơn giản hơn, đọc một bài thơ của một nhà thơ anh ở thế kỷ 18, trong khi cắn một cái bánh quy và uống một tách trà, tự hỏi tác giả nghĩ gì, lòng biết rằng đây là một trong những lần cuối cùng mình có thể băn khoăn ? Sự thật là, đừng nói đến tinh yêu, hầu hết mọi thứ đều tuyệt diệu hơn những dục vọng đời thường hàng vạn lần, nhất là khi anh đã biết, một cách chắc chắn, rằng thời khắc của thế giới của mình đã đến.

Ghosts, cats, and quantum theory

.

Also Ball lightning (2005) review.

Ấn tượng với trilogy Tam thể của Lưu Từ Hân, tôi đọc tiếp tiểu thuyết Sét hòn của ông. Truyện này kém Tam thể khá xa. Dù đọc xong chưa quá lâu, tôi đã quên mất tên nhân vật chính là gì, chỉ nhớ nhân vật nam chính, như thường lệ, là một anh chàng nhạt nhẽo và không có vai trò gì lớn đối với câu chuyện. Nhân vật nữ chính, đáng nhớ hơn, không phải vì hay ho gì, mà chỉ vì cô là một dạng psychopath, cuồng tín và khát máu, tuy vậy lại được tác giả miêu tả bằng một sự trìu mến khó hiểu.

Nửa đầu truyện rất dài dòng và nhạt nhẽo khiến tôi định bỏ ngang, nửa sau khá hơn nhưng vẫn không có gì đặc sắc. Cái đáng nói là một, chỉ một ý tưởng của Lưu từ Hân khiến tôi phải “wow” một cái, như kiểu tại sao nó đơn giản thế mà mình chưa bao giờ nghĩ tới.

Con mèo của Schrodinger

Đây là một thí nghiệm tưởng tượng được nhà vật lý lượng tử Schrodinger nghĩ ra vào tầm đầu thế kỷ 20. Giả sử có một con mèo trong một hộp kín. Trong hộp có một thiết bị, nếu thiết bị này nhận được tín hiệu sẽ xì khói độc ra và mèo sẽ chết. Tín hiệu được phát ra từ một vật liệu phóng xạ.

Vật lý lượng tử nói về tính bất định của các vật chất siêu nhỏ. Ở thế giới lượng tử, vật chất không có tính tuyệt đối, mà có tính bất định, nghĩa là có tính xác suất. Ví dụ ta có thể nói một đồng xu đặt chính xác ở giữa cái bàn, nhưng không thể nói một hạt lượng tử (ví dụ electron) đang ở giữa hai nguyên tử – đây là tính bất định về vị trí. Ta chỉ có thể nói xác suất để hạt electron này đứng ở giữa hai nguyên tử là 90%. Thêm nữa, không chỉ vị trí, mà tất cả các thuộc tính vật lý của các hạt đều bất định.

Do vậy, vật liệu phóng xạ nói trên có phóng ra một hạt hay không, điều đó có tính bất định. Nó có thể phóng, mà cũng có thể không. Ta chỉ có thể biết nó phóng hay không nếu ta dùng các thiết bị để đo nó, tức là ta đã can dự vào nó. Trong trường hợp này là phải mở hộp ra xem. Ở đây cần lưu ý một điểm mà ngay cả các sinh viên (và một số thầy giáo dạy vật lý lượng tử ở trường đại học) hay nhầm, đó là nghĩ rằng tính bất định và xác suất là một. Nghĩa là nghĩ rằng, ví dụ, một hạt đang đứng ở đâu đó với một xác suất nào đó, không thể biết được, chỉ có cách đo mới biết. Như thế là sai. Đúng là một hạt có một xác suất để đo được ở một vị trí nhất định, nhưng không có nghĩa rằng nó đang đứng ở đâu đó. Nó tồn tại ở mọi nơi. Khi không đo, nó không có tính vị trí, không giống như các vật thể ở thế giới vĩ mô.

Cũng như vậy, ta chỉ có thể biết vật liệu phóng xạ nói trên có phóng hay không, tức là mèo sống hay chết, nếu ta mở hộp ra. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng khi không mở hộp, con mèo sống, hay chết, chỉ là ta không biết. Nó có nghĩa rằng con mèo sống hay chết có tính bất định, hay nói cách khác, con mèo này đã không còn tính sống/chết. Tính bất định của vật liệu phóng xạ đã “truyền” qua con mèo.

Mèo trong văn hóa dân gian

Không hiểu sao, mèo luôn được gắn với những thứ thần bí, từ thời cổ đại Ai cập đến giờ luôn như vậy. Có thể vì nó sống về đêm, hay vì mắt nó xanh lè, hoặc vì thái độ dửng dưng bất cần ? Nó được nói có 9 mạng, nghĩa là nó vẫn còn sống đấy, nhưng đã có vài lần nó đã ngó nghiêng sang “thế giới bên kia” rồi. Tôi còn nhớ trong phim Constantine, nhân vật chính đến với địa ngục bằng cách nằm trong bồn tắm để nước ngập mặt, hai tay giơ một con mèo lên và nhìn vào mắt nó. Constantine giải thích rằng mèo vốn đã sống một nửa ở trần gian, một nửa ở thế giới bên kia, nên dùng nó làm cầu nối. Trong một số bộ phim ma, mèo cũng là con thường phát hiện ra sự xuất hiện của ma quỷ trước tiên.

Chuyện ma trong Sét hòn

Khi còn nhỏ, nhân vật chính trong Sét hòn sống cùng bố mẹ ở một tỉnh lỵ gần một bình nguyên nhiều sét. Trong ngày sinh nhật lần thứ mười của mình, khi đang cùng bố mẹ thổi nén và cắt bánh, một cục sét hòn bay vào và đánh trúng bố mẹ anh, thời gian như ngưng đọng lại, bố mẹ anh biến thành hai bức tượng nghi ngút khói và khi cậu bé đủ can đảm sờ vào, thì cả hai hóa thành tro rơi xuống đất. Sau đó cậu bé được một người họ hàng nuôi ăn học ở thành phố khác đến tận khi học đại học. Trở về nhà cũ để cho thuê kiếm thêm, cậu sinh viên phát hiện ra nhà mình vẫn sạch sẽ như có người dọn dẹp, chiếc gương treo tường vẫn sáng không bám bụi, và chiếc lược sừng mà mẹ mình hay dùng để chải mái tóc dài hồi xưa vẫn láng bóng. Buổi đêm khi đang ngủ, cậu còn nghe thấy tiếng ho, không phải từ nhà hàng xóm, mà rất giống tiếng của bố mình hồi xưa.

Sau khi vào đại học, với quyết tâm nghiên cứu sét hòn, cậu còn gặp thêm nhiều trường hợp tương tự, ví dụ cậu tìm thấy ở nhà một nhà khoa học bị sét hòn đánh chết ở tuổi 25 những tấm ảnh rõ ràng của bà ấy, nhưng lại ở độ tuổi 40 với những nếp nhăn và tóc bạc không thể nhầm lẫn. Hay những trang nhật ký của một người khác, cũng chết vì sét hòn vào nhiều năm trước, lại được ghi chép tiếp trong nhiều năm sau.

Ý tưởng của Lưu từ Hân

Ai cũng biết con mèo của Schrodinger, và ai cũng biết mèo là kiểu nửa này nửa kia. Thế nhưng hình như không có ai nghĩ đến chuyện kết nối thế giới lượng tử với ma quỷ, một ý tưởng đơn giản nhưng rất wow. Kết quả là Lưu từ Hân đưa ra được một cách giải thích thuyết phục nhất về ma, ít ra là theo những gì tôi biết. Tôi nghĩ ý tưởng về ma này cũng hay không kém gì ý tưởng về Khu rừng đen tối trong Tam thể.

Ông cho rằng ngoài thế giới chúng ta đang sống, có một thế giới “siêu vĩ mô” cùng tồn tại trong không gian vũ trụ, và hai thế giới này “lồng” vào nhau. Thế giới lượng tử của cái thế giới siêu vĩ mô kia có kích thước tương đương với thế giới của loài người. Cụ thể là cái chúng ta gọi là “sét hòn” thực ra là một hạt electron của thế giới lượng tử siêu vĩ mô. Một nguyên tử, bao gồm hạt nhân và nhiều electron, đã có kích thước cỡ một quốc gia, hoặc một châu lục. Sét hòn là một electron siêu to đã bị kích thích lên trạng thái năng lượng cao, sau đó nó sẽ giải phóng năng lượng để trở lại trạng thái thường, tương ứng với việc ta nhìn thấy sét hòn phóng sét đánh vào một vật gì đó. Tuy ta thấy đánh xong nó biến mất, thực ra nó không biến mất mà chỉ là trở lại với trạng thái lượng tử bình thường, vô hình. Cũng vì có tính lượng tử, mà ta quan sát thấy sét hòn có đường đi không thể tiên đoán, và dễ dàng xuyên qua các bề mặt rắn như tường nhà hay bàn ghế.

Một tính chất quan trọng khác : khi sét hòn đánh vào cái gì đó, nó mang cái đó đến với thế giới lượng tử siêu vĩ mô. Tức là nó truyền tính bất định lượng tử cho vật thế đó. Nếu vật thế đó là con người, thì người đó sẽ biến thành người lượng tử, hay nói cách khác, là ma. Người đó trở nên bất định về mặt vị trí (và cả tốc độ) và xác suất để người đó xuất hiện ở một địa điểm cụ thể là nhỏ, xác suất này lớn nhất ở địa điểm người này bị sét hòn đánh, nghĩa là chỗ người này chết. Tuy xác suất để con ma này xuất hiện ở chỗ nó chết là lớn so với các chỗ khác, nó cũng nhỏ hơn nhiều so với 100%, nên chỉ thỉnh thoảng nó mới hiện ra được. Và xác suất để nó hiện ra được trong một thời gian đủ dài để làm việc gì đó thì còn nhỏ hơn. Nên các con ma chỉ xuất hiện, làm một việc gì đó trong thời gian ngắn mà nó cho là cần thiết, như soi gương và chải tóc, rồi lại tan biến. Tất nhiên, cũng có những con ma có những việc cần làm quan trọng hơn là soi gương hoặc dọn nhà…

Một điểm nữa khiến người ta ít gặp ma: xác suất để ma hiện ra đã rất nhỏ rồi, nhưng nó còn cần một “người quan sát”. Đó không cần phải là người, mà chỉ cần là một tác nhân đóng vai trò “quan sát” tương ứng như người mở hộp để xem mèo sống hay chết. Hãy nhớ rằng nếu không mở hộp, mèo không có tính sống/chết. Một con ma chỉ có thể hiện ra nếu có một kẻ đang nhìn vào nó, kẻ đó có thể là người, là chó mèo, là một cái camera…

(Thật ra tác giả có một cách giải thích ngược với tôi, ông cho rằng khi sét hòn đánh vào một người, không những nó chuyển người này đến thế giới lượng tử siêu vĩ mô, mà đồng thời còn giết người này. Tức là con mèo luôn chết khi mở hộp, nó chỉ có xác suất sống khi không mở hộp. Người ta chỉ có thể nhìn thấy dấu vết do ma để lại, chứ không thể nhìn trực tiếp vào ma, người quan sát sẽ làm ma tan biến ngay tức khắc. Tuy vậy cách lập luận này khá phi logic. Ở cuối truyện bản thân Lưu từ Hân cũng cho một con ma nói chuyện với nhiều người.)

Thêm nữa, ma chỉ có thể già đi khi nó hiện ra, nghĩa là nó già đi rất chậm so với người, vì thời gian nó hiện ra rất ít. Khi nó hiện ra, nó vẫn có đầy đủ các nhu cầu của con người, ví dụ như là đói… nếu chẳng may mà nó chết ở một vùng hoàn toàn không có thức ăn, thì cùng với thời gian, nó sẽ trở nên rất đói.

Thế nếu nó “chết” khi đang hiện ra thì sao ? Không có gì thay đổi, xác của nó vẫn sẽ thối rữa như xác người, nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều, sẽ có những người nhìn thấy cái xác đó, cái xác cuối cùng sẽ thành xương, và xương cuối cùng sẽ thành tro bụi, nhưng sẽ mất rất nhiều thời gian. Chính vì thế mà không có con ma nào tồn tại được mãi.

So there you go, bây giờ bạn đã có được một cách giải thích khoa học về ma, vì thế nếu có gặp cũng đừng sợ hãi, hãy thử… bắt chuyện với nó xem sao ? Hoặc là không, vì ai mà biết được ý nguyện cuối cùng của nó là gì… :))

Berserk

.

Is it true, that man has no control, even over his own will ?

.

Dù biết Berserk là một manga nổi tiếng từ lâu, vì một số lý do mà tôi chưa đọc nó. Một hai lần đọc được vài chapter lại bỏ ngang. Bề ngoài nó là kiểu manga medieval fantasy, hơi dark và gothic. Vì hiện giờ tôi chỉ thường xem phim thập kỷ 9x, tôi tình cờ xem anime Berserk (1997). Nó không chuyển thể toàn bộ, mà chỉ một arc : Golden age, hình như là arc 3 trong manga.

Tôi đã không phí thời gian khi xem 9h anime này. Kết hợp lại, nó như một bộ phim dài, đơn giản trong từng bộ phận nhưng hòa hợp tuyệt vời khi đứng cạnh nhau. Cái kết của nó, Nhật thực (The Eclipse), là một trong những tập anime ấn tượng nhất tôi từng xem, nó sẽ khiến cả những kẻ chai sạn nhất phải giật mình vì một cái ác khủng khiếp, thuần khiết, tự nhiên như bản thân hơi thở của con người.

Ba nhân vật chính của Berserk là Gus, Casca và Griffith. Lúc ban đầu cả ba đều là những nhân vật đơn giản. Sau đó tính cách của họ có những bước phát triển hợp lý trong một mối quan hệ tay ba phức tạp. Chính vì vậy mà đến cuối phim, tôi bắt đầu thích nhân vật Casca, và hoàn toàn quên mất cô được vẽ tương đối xấu : da đen, tóc ngắn mà lại có một đôi môi hồng hồng trông khá ớn. Đấy là lúc tài năng của tác giả đã kết tinh đủ. Như V đã nói : “I am not my clothes, or the flesh beneath them, or the bones inside it”. Người đọc chỉ còn nhìn thấy cuộc đời của Casca từ khi là một cô bé nhà nghèo, bị bắt làm nô lệ đến lúc được Griffith cứu, sau đó lấy giấc mơ của ân nhân làm giấc mơ của mình. Giả sử không vẽ Casca da đen, tóc ngắn và môi hồng ớn mà vẽ thành da vàng, đầu trọc, cơ bắp cuồn cuộn, tôi nghĩ sẽ không có gì thay đổi.

Tôi nghĩ tất cả lũ biên kịch và đạo diễn ở Hollywood hiện nay không có khả năng tạo ra một nhân vật như Casca. Mặc dù việc đó không có gì là khó, Casca không phải là một cá tính phức tạp. Thậm chí là phần còn lại của thế giới cũng vậy. Để viết được một nhân vật đơn giản và có sức rung động lòng người, chỉ cần nhìn chăm chú vào nhân tính, và yêu lấy cái thiện trong nhân tính đó. Dường như thế giới không còn khả năng này.

Casca đơn giản, thuần khiết làm nền cho Griffith phức tạp với những điều không nói, những chuyển biến tâm lý khổng lồ được thể hiện chỉ qua một cái nhìn vô cùng ám ảnh. Đây là một nhân vật có sức giải thích sâu rộng về cái ác của con người. Tại sao Hitler, một thanh niên trẻ có đam mê hội họa lại có thể trở thành một kẻ giết đến cả triệu người ? Hãy xem Griffith. Nếu Sephiroth là phản diện hay nhất trong game thì có lẽ Griffith là một trong những nhân vật phản diện xuất sắc nhất trong manga. Nếu ai không hiểu narcissist’s injury là gì, google mà vẫn chưa rõ, hãy xem những tập cuối của Golden age. Hòa quyện trong bản chất ít nói, dịu dàng, cái narcissist’s rage của Griffith bùng nổ trong tập cuối Nhật thực tạo nên một trong những trường đoạn tàn bạo, khủng khiếp nhất trong lịch sử anime.

Xem xong Golden age, tôi nghĩ một chút về điện ảnh vn. Hết rác phẩm này đến rác phẩm khác, ngày càng ngạo mạn, vô sỉ. Nhưng tại sao bạn lại quan tâm ? Có gì đáng ngạc nhiên ? Điện ảnh phương tây cũng như vậy, nó còn là đầu nguồn của tất cả những thứ này. Và thật ra tôi cũng không còn quan tâm đến điện ảnh phương tây. Nó chỉ là một vấn đề nhỏ, nhỏ xíu so với những thứ sẽ xảy ra trong những thập kỷ tới.

Có những người chế nhạo những doom-sayer, nói họ là những kẻ thích dự đoán những tai họa vì điều đó làm họ cảm thấy mình sinh ra ở một thời kỳ đặc biệt. Điều đó có lẽ đúng. Nhưng trong trường hợp của thế giới hiện nay, không thể nói như vậy. Có quá nhiều vấn đề, và vấn đề nào cũng có vô số bằng chứng, không có gì cảm tính. Một ví dụ: số người bị giết trong thế chiến thứ hai là cỡ 60 triệu, ai cũng biết phát xít đức và phát xít nhật độc ác như thế nào. Nhưng nếu bạn lên youtube và search thử đời sống của người dân nước Đức và Nhật trước chiến tranh, và ngay cả trong chiến tranh, bạn sẽ thấy họ cũng là những người như chúng ta, hàng ngày đi làm, kiếm tiền để tối về cho con ăn, chơi với con, mong muốn một tương lai tốt hơn cho con cái của mình. Họ không phải là quái vật. Về mặt hiện trạng xã hội mà nói, cấu trúc xã hội thời đó còn vững chắc hơn hiện nay : cấu trúc gia đình và các giá trị đi kèm vẫn còn nguyên vẹn, một số lớn dân Châu âu vẫn còn có đức tin, xã hội có phân cực, nhưng chủ yếu chỉ ở mặt giàu-nghèo. Hãy thử so sánh với phương tây (Mỹ) hiện nay : 60% trẻ có bố mẹ ly dị, tỷ lệ mắc bệnh tâm lý như trầm cảm và rối loạn lo âu ở con gái từ 18-24 tuổi là hơn 20%, số lượng nam thanh niên còn trinh đến 30 tuổi tăng đột biến, tiệm cận Nhật bản, hơn 10% dân số sử dụng các loại thuốc an thần, giảm đau có yếu tố gây nghiện, trẻ lên 10 đã có thể dùng ritalin, năm ngoái chỉ riêng số người chết ở Mỹ vì fentanyl (một loại ma túy tổng hợp rẻ và mạnh hơn meth) đã là hơn 100 nghìn người, bằng số thương vong của Ukraine. Nói về chuyện con trai còn trinh, bạn có thể thử tìm hiểu về hypergamy, một yếu tố bị đẩy đến cực hạn bởi social media, để thấy những người trẻ giờ yêu đương khó đến mức nào. Ví dụ một cô gái 4 điểm sẽ chỉ “khớp lệnh” nếu được với một chàng trai trên 8 điểm. Bởi bản thân nó đã là một sự vô lý, thị trường hẹn hò sụp đổ là chuyện đương nhiên. Một con đực (bởi qua các dating app, tâm hồn bị loại bỏ) 9.5 điểm sẽ có vô số con cái, còn những con đực dưới 9 hầu như không khớp được, bởi sự từ chối ở cả hai phía. Đây là sự phân cực về số bạn tình, đồng thời là sự suy giảm cực mạnh số lệnh khớp, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chiến tranh. Rất nhiều nam thanh niên ở phương tây đã coi việc tìm bạn đời và xây dựng gia đình (tiền mua nhà lại là một câu chuyện khác) là một chuyện bất khả. Họ cảm thấy bị bỏ rơi, là người thừa trong xã hội, nhất là khi nam tính được nhồi sọ là một original sin. Nói như một câu ngạn ngữ châu phi : “The child who is not embraced by the village will burn it down to feel its warmth”. Nữ thanh niên cũng không khá hơn, hãy nhìn những cuộc biểu tình ủng hộ palestine, phần lớn bọn họ là những cô gái trẻ, kích động, thiếu giáo dục dù bề ngoài không phải vậy. Nếu bạn còn nghĩ thanh niên phương tây thông minh cởi mở, hãy xem các cuộc tranh luận của sinh viên các trường đại học lớn như Oxford. Tôi sẽ không cho con mình học ở các trường đó nếu họ trả tôi 1 triệu $ một đứa. Thật mỉa mai là chỗ an toàn nhất mà tôi cảm thấy lại là ở vn, không phải vì vn có nên giáo dục hay ho gì, mà bởi đây là vùng sâu vùng xa, và cỗ máy tuyên truyền của phương tây khi đến đây đã yếu đi một chút.

Quay trở lại với Berserk, liệu những năm 90 của thế kỷ trước có phải là Golden age của chúng ta ? Càng ngày tôi càng cảm nhận được nó, chậm rãi và chắc chắn.

The devil we don’t know

.

“There are flood and drouth
Over the eyes and in the mouth,
Dead water and dead sand
Contending for the upper hand”

.

Tuần vừa qua có thể nói là một trong những cú sốc lớn nhất của thế giới trong một thời gian dài.

Tại sao ? Có phải vì xung đột man rợ nổ ra, dẫn đến chiến tranh Israel – Gaza ? Như tôi đã nói ở một số post trước, lịch sử đã chứng kiến nhiều lần các đế chế mở rộng, trở nên thịnh vượng một thời gian, cùng với đó là yên ổn, hòa bình, thế rồi đế chế đó suy tàn. Khi một đế chế yếu đi, các thế lực ngoại biên trỗi dậy, xung đột và chiến tranh sẽ quay trở lại. Cuộc chiến Nga – Ukraina chỉ là mồi lửa đầu tiên. Các thế lực khác quan sát nó chăm chú và nhận ra cái còng ở tay mình đã biến mất từ lúc nào không rõ. Một khi nhận thức này xuất hiện, không có gì có thể cản trở trật tự đơn cực vỡ vụn như tòa lâu đài bằng giấy. Azerbaijan mở rộng lãnh thổ về phía Armenia, đảo chính dây chuyền ở Tây Phi và giờ là Israel. Thật ngớ ngẩn khi phân tích đúng sai giữa xung đột của hai sắc tộc vốn đã thù hận nhau trong thời gian 1400 năm, trải qua vô số cuộc tắm máu ; có mâu thuẫn về những quyền lợi cơ bản như không gian sống, thức ăn và nước uống ; đồng thời còn phải chia sẻ với nhau thánh địa Jerusalem, mảnh đất nhỏ xíu oằn mình gánh đến 3 tôn giáo, không phải là 2. Từ sau cuộc chiến Yom Kippur (1973), đánh bại liên minh Ả rập, Israel với cương vị của kẻ chiến thắng đã không ngừng mạnh lên, và trở thành một cường quốc trong khu vực. Người Palestine yếu hơn và không bị ràng buộc bởi đạo đức phương tây, sử dụng vũ khí đặc trưng của kẻ yếu, là khủng bố. Israel, với quân đội mạnh hơn nhiều và lực lượng tình báo Mossad hàng top thế giới, phong tỏa, chia cắt, dựng hàng rào để quản thúc và kiểm soát lãnh thổ của Palestine, thứ bị phân thành những ốc đảo không liên kết nằm trong Israel. Đây là một trạng thái cân bằng động đầy máu và thù hận. Chỉ cần đọc lịch sử một chút, bạn sẽ thấy hòa bình ở vùng đất này mới là điều khó hiểu, chứ không phải là ngược lại.

Vậy điều gì khác biệt đã xảy ra trong tuần qua mà làm thế giới rúng động đến thế, thậm chí đến giờ tôi vẫn có thể nói là nó chưa hoàn toàn nhận thức hết ? Đấy là phản ứng của phần còn lại của thế giới, của dân thường với sự kiện này. (Ở đây phải nói thêm một chút là Việt nam vốn ủng hộ Palestine, nên nhiều thứ sau đây đã không xuất hiện trên báo việt).

Đầu tiên, ngay sau khi Hamas tấn công Israel, tràn qua biên giới, bắn, chặt đầu dân trên phố, hiếp phụ nữ và bắt cóc trẻ con, người già, tổng cỡ 1300 người, trước khi Israel phản công, một nhóm cỡ từ 300-1000 người đã tụ họp ở cạnh nhà hát opera sydney, bắn pháo hoa, uống sâm panh, chúc mừng nhau và cùng hô vang “Gas the Jew !” Người ta thấy có một số người Do thái được cảnh sát “dìu” đi chỗ khác, để “tránh các xung đột không đáng có.”

Tổ chức BLM (black lives matter) post hình lính dù khủng bố Hamas với dòng chữ “I stand with Palestine”, mặc dù sau đó đã xóa bài này.

Sau đó, khoảng 50 nghìn người ủng hộ Palestine biểu tình ở London, một số đeo biểu tượng hamas, chưng biểu ngữ “from river to the sea”, ý nói sẽ lùa hết dân Do thái xuống biển. (Pháp cấm mọi cuộc biểu tình ủng hộ Palestine, Mỹ bắt vài trăm người xông vào tòa nhà quốc hội, còn UK không làm gì.)

Đấy là một số sự kiện diễn ra trong đời thực, còn trên mạng thì số video clip ở các mạng xã hội nhiều không kể xiết, phân tích, tranh luận, chửi bới, đe dọa lẫn nhau. Nếu nhìn lại sẽ thấy tương đối giống tình trạng diễn ra trước bầu cử Mỹ 2016 và 2020, khi mà cả xã hội như lên cơn động kinh, chỉ có cảm giác là quan trọng, hét thật to, virtues signaling thật mạnh, kẻ bất đồng quan điểm phải bị coi là thú vật, lịch sử không tồn tại và sự thật là một thứ vô tích sự. Cũng như những năm đó, người ta nhìn xung quanh và chợt nhận ra những người mà ta vẫn nghĩ là “bình thường” có thể mỉm cười sung sướng khi nghe tin hơn một nghìn người bị sát hại dã man.

Ai là những kẻ độc ác nhất trong lịch sử ? Phát xít Đức tàn sát người Do thái và Ba lan, nhưng chúng có động cơ kinh tế và chúng che dấu các trại tập trung, phủ nhận nó. Phát xít Nhật không bao giờ nhắc đến đơn vị 731. Chúng không ăn mừng và up lên social media.

Những cuộc thảm sát đã diễn ra vô số lần. Nhưng đây có lẽ là lần đầu tiên, một cuộc thảm sát lại được đón nhận như một tin vui, cần phải liên hoan, không giấu diễm, không sợ hãi, mà phải cho cả thế giới biết, can’t be anything but myself.

The first time in history

Hân hoan khi kẻ thù của mình bị giết, dù đó là dân thường vô tội, vẫn có thể hiểu được, nếu bạn là dân Palestine, gốc Palestine hoặc theo đạo Hồi. Hoặc nếu bạn có những lợi ích về chính trị hoặc kinh tế khi đứng về phe Palestine, bạn hơi đáng tởm một chút, nhưng vẫn có thể hiểu được. Cái không thể hiểu được, đấy là bạn không có chút liên hệ nào với Palestine, đạo Hồi, nước bạn còn thân với Israel. Từ những cái đầu rơi xuống, những cô gái bị hiếp và trẻ con bị bắt để làm bia đỡ đạn, bạn không nhận được một xu. Khi ấy chỉ còn một cách giải thích : trong bạn cái ác đã đơm hoa kết trái, và giờ đây mùi vị của nó đã lan tỏa trên toàn thế giới.

Tôi đang muốn nói đến phong trào cực tả ở Mỹ và phương tây. Phần lớn các nhóm trong phong trào này đều ủng hộ Palestine theo các mức độ khác nhau, và không có, hoặc rất ít nhóm lên tiếng ủng hộ Israel. Hầu hết sinh viên các trường đại học đều ủng hộ Palestine, công khai hoặc online. Như đã thấy trong các cuộc biểu tình pro Palestine, số người trẻ tuổi khá đông. Trên mạng, số lượng bọn họ vượt xa nhóm có lợi ích.

Làm thế nào mà những nhóm người luôn tự nhận mình là người tiến bộ (progressive) có thể đồng tình với hành động diệt chủng ? “What do you think de-colonization look like ? This is it.” Một tiktoker cực tả nháy mắt nói với các follower của mình. Một nhóm khác giương băng rôn “Queers for Palestine”, mà không biết rằng luật hồi giáo Sharia tử hình người đồng tính. Hàng loạt tổ chức sinh viên thể hiện lòng ủng hộ với Palestine, nhưng không biết gì về Palestine, không biết gì về Israel, không biết về đạo Hồi, về lịch sử vùng Trung đông. Đó là bời vì theo những gì họ được học, Israel thì cũng victim đấy, nhưng Palestine victimer.

Phong trào cực tả gột rửa cá nhân khỏi tư duy phản biện độc lập, nó nuôi dưỡng những đứa trẻ trong hình hài người lớn, những người đã từ bỏ suy nghĩ và trách nhiệm cá nhân, đưa nó cho tôn giáo của mình. Họ là những người cảm thấy bị xúc phạm một cách sâu sắc khi thầy của họ dám nói đàn ông và đàn bà khác nhau về mặt sinh học, làm đến cùng để hắn bị đuổi, họ ủng hộ đạo luật bỏ tù những kẻ dám tặng hoa mà không có được sự đồng thuận của cô gái trước, vì đó là thao túng tâm lý, nhưng họ ủng hộ việc trẻ con bị chặt đầu, coi đó chỉ là một cơ hội khác để virtue signaling, để cùng nhau lên một cơn hysteria mới.

Gần đây tôi có xem một phim truyền hình hàn quốc, trong đó nhân vật nam chính học Harvard về. Tôi xem năm phát hành là 2018. Thế giới có lẽ vẫn chưa rõ Harvard mười năm gần đây và Harvard những năm 90 trở về trước là hai thực thể hoàn toàn khác nhau. Để xét nhập học, về phần học lực, Harvard có một cái gọi là “cognitive score”, là một loại chỉ số tính ra từ các bài test. Gần đây, một tài liệu rò rỉ cho thấy một học sinh da đen với điểm trí tuệ là 4 được Harvard đặt ngang với học sinh châu á điểm 10. Vì vụ này mà trường đã bị kiện lên tòa án tối cao và thua cuộc, nhưng vì Harvard là trường tư nên hoàn toàn có thể lách luật tiếp bằng các thủ pháp khác. Một tổ chức phi chính phủ tên Fire chuyên theo dõi quyền tự do ngôn luận, năm nay đã chấm Harvard đứng bét bảng trong số tất cả các trường đại học ở Mỹ. Điểm này tính dựa trên số lượng giáo sư, sinh viên bị đuổi vì phát ngôn trái quan điểm của trường, ví dụ như đàn ông không thể mang bầu, các hành động bắt nạt ở các sự kiện tranh luận, thuyết trình, như kiểu la ó át tiếng, tạt nước, chửi giáo sư, và cảm nhận của các sinh viên về quyền được bày tỏ quan điểm. Thật ra trong nhiều năm gần đây Harvard luôn đứng trong top bét bảng, và năm nay còn nhận được điểm -10, chứ không phải là 0. Tôi có xem một phỏng vấn ở campus của Harvard, và ngạc nhiên thấy phần lớn sinh viên từ chối không trả lời, và một vài người trả lời thì có ngôn ngữ yếu kém, nói năng lắp bắp, phi logic, có vài người tự nhận đã được nhận vào trường mà không phải trải qua kỳ thi nào ở cấp 3, chỉ vì là da đen. Dù nổi tiếng, trước đây các công ty, tổ chức lớn vẫn nói sinh viên Harvard, hay bất kỳ trường nào khác, khi ra trường không hề biết cách làm việc. Những kiến thức ở trường phần lớn không dùng được. Cái khiến sinh viên Harvard đáng giá, đó là họ đã học được cách tư duy và phương pháp giải quyết vấn đề. Hiện giờ các công ty lớn không còn tin vào cách tư duy của sinh viên các trường hàng top, và đã bắt thi lại khi ứng tuyển.

Những thứ trên cũng đúng với phần lớn các trường (nổi tiếng) khác ở Mỹ, và ở các nước khác như Anh, Scotland, Canada, Úc, New zealand. Vì lợi ích trăm năm trồng người, các sinh viên này ra trường và bắt đầu thăng tiến lên các vị trí quan trọng. Không phải tự nhiên mà các tập đoàn lớn quỵ lụy trước woke mob, đó là bởi nhân sự của họ liên tục bị xâm lấn bởi chủ nghĩa này. Họ đang và sẽ chiếm đoạt các vị trí quan trọng trong tất cả các khía cạnh của xã hội, và sau đó thay đổi xã hội một cách toàn diện.

Tuần qua, phương tây đã được chứng kiến, lần đầu tiên, một phần của cái xã hội đó.

The killing of the truth

Có rất nhiều người đã tìm cách phân tích cội rễ của phong trào cực tả. Một số nói nó bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác. Tôi không nghĩ như vậy, mặc dù các hệ thống toàn trị luôn có nhiều điểm chung. Là một trader, tôi nhìn lịch sử như lịch sử của các cycle. Thịnh vượng và suy tàn, mở rộng và thu giảm, đêm trường và phục hưng. Trong từng cycle, cái thiện và cái ác đều lặp lại theo những cách tương đồng. Bởi lực lượng thống trị phần lớn là đàn ông, cái ác trong lịch sử phần lớn là cái ác nam tính. Đặc trưng của nó là sự hỗn loạn, bạo lực, giết chóc. Nhân loại đã thấy nó, hiểu nó, biết cách đối phó với nó.

Cách đây hơn 70 năm, nhân loại phát triển và lần dầu tiên tạo ra được các xã hội đầy đủ vật chất đến mức thừa mứa. Một kỷ nguyên vàng không có chiến tranh (diệt chủng). Dẫn đầu là Mỹ. Có điều Anomaly này tiềm ẩn hai sự nguy hiểm chết người.

Một là, bởi không có chiến tranh, vai trò của nam giới suy giảm. Vai trò của nữ giới tăng lên. Quyền lực của nữ giới tiệm cận nam giới. Cái ác nữ tính tăng lên. Các hình thái toàn trị nữ tính xuất hiện. Đặc trưng của nó là sự sỉ nhục, giày vò, cô lập.

Hai là, bởi không có chiến tranh, con người càng ngày càng ít suy ngẫm về cái chết. Vì không hiểu cái chết, nó không hiểu cuộc sống. Sự thừa mứa vật chất làm nó trở nên yếu ớt như những đứa trẻ. Chủ nghĩa tư bản dạy rằng mục tiêu của đời người là đi tìm vật chất, nhưng giờ nó đã quá đủ vật chất. Chúa thì đã chết khá lâu. Lạc lõng, nó trở thành chúa của chính mình. Đấy là tôn giáo của một người – narcissism. Trong tôn giáo này, the truth không tồn tại. Chỉ có một truth duy nhất, đó là my truth, và mọi sự phải uốn cong theo nó. Thế giới phải thay đổi, nằm trong lòng bàn tay của nó.

Sau đó, social media ra đời. Nó như một can xăng thổi bùng lên đại dịch ái kỷ. Mỗi người đều có một tôn giáo, mỗi người là một vị chúa, mỗi trang cá nhân trở thành một thánh đường. Hãy tôn thờ tôi. Cái ác toàn trị nữ tính nhìn thấy những đứa trẻ con – Chúa này, và nó bao bọc chúng lại – the nanny state. Chúng ăn lẫn nhau như những narcissist supply, lớn lên, Chúa của chúng cũng ngày càng to ra. Bởi vì sự thật không còn tồn tại, chỉ còn my truth, mọi sự đều được phép. Đây là một thế hệ đặc biệt của những cái tôi khổng lồ, nhưng nếu nhìn từ xa lại không thể phân biệt. Tuy vậy, chúng sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ nó – dù có phải định nghĩa lại toàn bộ hiện thực – redefine reality.

Nếu nhìn thế giới vài chục năm qua theo cách này, bạn có thể lý giải được những sự phi lý đang lan ra nhanh như một đám cháy rừng ở California. Có lần tôi hỏi vui hai bé nhà tôi rằng : nếu có một người gặp thượng đế, và được cho 1 điều ước. Anh ta ước gì 1+1=3. Thế thì sẽ có chuyện gì xảy ra ? Câu trả lời không dễ nghe như câu hỏi. Vì 1+1=3 nên 2=3. Nên 0=1. Vì thế nên 2 cũng bằng 0. Cái gì cũng bằng không. Cái gì cũng bằng cái gì và vô cực cũng bằng không. Một mét dài bằng không mét. Không còn không gian. Một năm dài bằng không năm. Không còn thời gian. Tất cả biến mất, không còn gì cả.

Đấy chính là sức phá hoại của my truth và redefine reality. Trong lịch sử, nhân loại chưa từng gặp chế độ toàn trị nữ tính như thứ đang thống trị phương tây hiện nay. Không ai biết cách đối phó. Nếu nó có thể justify cái chết của một nghìn người, thì nó cũng có thể justify cái chết của bạn, chỉ cần có một ai đó victimer hơn bạn. Và nếu bạn nghĩ rằng “chắc nó chừa mình ra” thì có lẽ, một kết cục như kiểu Tutsi và Hutu đang chờ ở đâu đó, gần hơn bạn nghĩ rất nhiều.

.

.

.

Ps :

Phản ứng

Vì sự kiện vừa mới xảy ra, thông tin về phản ứng của các nhóm ngoài cực tả chưa nhiều. Có một số kêu gọi trục xuất các đối tượng ủng hộ Hamas, nhưng điều này nghe có vẻ viển vông. Một số khác đưa con mình rời khỏi các trường đại học ở các bang cực tả, bởi cuối cùng họ cũng nhận ra số tiền gần triệu usd cho con mình học từ lớp 1 đến hết đại học không mang lại gì khác ngoài việc thằng bé được dạy “ghét nước Mỹ, ghét bố mẹ, ghét màu da của mình, mình là con gái, chiến tranh là hòa bình và sự thật là dối trá”.

November is the cruellest month

.

“Another autumn has come, the season of dying, parting, and writing poetry”

.

“We are seasons,
all of us”
Fading in the light
Growing in the dark

.

.

Autumn

.

Autumn was a season of poetry,
I returned home to see a dove
Young, strong, with perfect feathers,
trapped under a transparent current.
It tried to get out,
instead it swam,
beautifully,
like no fish, like no human,
parting water with soft white wings.

Autumn was the season of dying,
We were so cold,
the doors were too open and blankets too small,
the haze went in,
our feet touched, just once,
you were melting before my warmth,
I thought that’s a good feeling,
until the pelican caught up with the dove,
and swallowed it whole.
I couldn’t breathe, watching,
The gulping was seamless
Your eyes were cool,
a mirror,
singing out the mourning melody,
You said: “why, you, stranger ?”
and went west, into the night,
like the harrowed ice girl

Autumn was a season of leaving,
After the wedding, we sat together
to open the cards
Her hair was on me while
I saw your name…

but your envelope’s sealed

If a bit surprised,
If we walked out,
afternoon would change colors
Beside the road,
cypress rows waved with the wind,
Scent of unknown flowers, from faraway hill-farms,
flooded our lungs
We would be pleased, flying slowly,
fiddled with sweet air,
passed whispering horizons
of moonglow junipers, aspens and acacias,
and only stopped to dance
a little, near the bonfire,
where time thickened like honey.
She asked: “what are you gonna do ?”
-“What am I ever gonna do ?
There is nothing out of here
Here is where our hearts stay,
Here is where everything would happen, again.”

Autumn was a season of waiting
As there was no place for a blizzard,
in this walled garden
As there was no mercy,
for those who were left in unrecallable years
The days were ash for a long time,
All had burnt fully, and the ash was white.

Sit down and see
Candles lit up
Doors were closed
I’m here,
and not here
Look to the east sea
Look to the flat land
Look for the thunder.

Where should my children live ? [4]

.

Gần đây có hai chuyện khiến tôi bất ngờ.

Chuyện thứ nhất :

tôi hay xem một kênh youtube chuyên phỏng vấn những người có liên quan đến cách mạng văn hóa 2.0 của phương tây, ở cả hai phe xanh và đỏ. Chủ kênh là 2 satirist người Anh – nghệ sĩ hài dạng mỉa mai châm biếm, hơi khác với comedian. Hoặc đúng hơn đã từng là satirist bỏ nghề làm youtuber, bởi theo hai anh này, thì nghề của hai anh là một trong những thứ đã bị woke culture tiêu diệt đầu tiên. Tại sao ? Đó là bởi sự hài hước không bao giờ có thể tồn tại trong các chế độ toàn trị. Nó không tồn tại thời Liên xô, không tồn tại ở thời Mao, không tồn tại ở Bắc triều tiên hiện nay, và giờ nó (sắp) không tồn tại ở Mỹ, và một số nước thân Mỹ như Anh, Scotland, Canada. Language policing luôn là một trong những công cụ chủ đạo của các chế độ toàn trị. Kiểm soát được ngôn ngữ là kiểm soát được tư duy. Kiểm soát được tư duy là kiểm soát được tất cả. Để có được sự hài hước, người nghệ sĩ phải sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình ở mức cao nhất, anh ta phải có quyền đả kích, châm biếm tất cả mọi thứ, từ những thứ nhỏ nhặt nhất đến những thứ trên bệ thờ. Các cá nhân riêng lẻ quá yếu đuối so với chế độ toàn trị đang đè nặng lên anh ta, và trong lịch sử thì sự mỉa mai châm biếm luôn là một cách phổ biến để người dân bị áp bức giải tỏa nỗi lòng của mình. Thế nhưng hiện tại tất cả các ngôn từ đều có thể dễ dàng bị gắn mọi nhãn mác yêu thích của woke police : racist, misogyny, bigot, homophobic, transphobic, white supremacist. Cứ mở mồm ra là chết. Mặc dù phong trào cực tả phương tây luôn trưng ra bộ mặt “vì những kẻ yếu thế” và “tự do, bình đẳng, bác ái” nhưng giờ sự đạo đức giả và những thủ đoạn của nó đã trần trụi và thô bỉ đến mức hầu hết giới nghệ sĩ hài đã quay sang chống lại nó, với một sự căm ghét còn lớn hơn nhiều so với sự căm ghét đối với phái cực hữu.

Trong một clip phỏng vấn cựu phó thủ tướng Úc, hai anh này đã nói ra một câu khiến tôi rất bất ngờ : “Look at Melbourne, it may be the wokest city on earth.”

Chuyện thứ hai :

trong một lần trò chuyện với hai con mèo của tôi – một trong hoạt động thú vị nhất, đối với tôi – câu chuyện lan man đi từ lịch sử sang Trung Quốc, sang kiểm duyệt, và sách. Tôi kể về chuyện sống trong những nước độc tài sẽ như thế nào cho hai cậu bé nghe. Ví dụ như nếu ở trong nước Trung Quốc, sẽ không thể nào biết gấu Pooh hình thù thế nào, thậm chí biết đến sự tồn tại của nó, bởi mọi thứ về nó bị cấm tiệt vì phạm húy. Một số sự kiện lịch sử không tồn tại, như sự kiện Thiên an môn. Hoặc chính quyền trung quốc có năng lực xóa sổ bất kỳ ai chống lại nó ra khỏi lịch sử, ví dụ như một diễn viên có thể bị “biến mất” hoàn toàn trên internet, cùng với mọi bài báo, mọi bộ phim, mọi hình ảnh có liên quan.

Tôi kể chuyện ở Nga, cũng là một nước độc tài khét tiếng, vào năm 2019 đã có 500 người bị bắt vào tù vì phát ngôn chống chính phủ trên net. Nhưng ít người biết rằng, cũng vào năm đó, ở một nước bé hơn nhiều, số người bị bắt là 3000, không phải vì chống chính phủ. Thử đoán xem đó là nước nào ? Đó chính là Anh, với lý do chống lgbt, hate speech.

Câu chuyện chạy sang Mỹ. Tôi kể rằng nhân danh tự do, bình đẳng, bác ái, trong mấy năm gần đây, Mỹ đã vươn lên trở thành nước có số đầu sách bị cấm đứng hàng top trên thế giới. Trong mảng sách thiếu nhi, rất nhiều quyển đã bị cấm một phần hoặc hoàn toàn, và rất nhiều quyển bị thay đổi nội dung “để phù hợp với thời đại”. Trong đó có nhiều quyển các con tôi đã đọc. Tôi kể rằng Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đã bị cấm ở nhiều bang. Sau đó vì tò mò, tôi thử google các đầu sách thiếu nhi bị cấm cho các con tôi xem.

Kết quả rất bất ngờ. Số sách bị cấm khá nhiều, nhưng tất cả đều là do phe đỏ cấm. Tất cả các quyển gần đây bị cấm bởi phe xanh không xuất hiện. Tôi nghĩ chẳng nhẽ mình lầm lẫn đến thế. Nhưng sau đó nghĩ lại tôi chắc chắn là không, không chỉ bởi đó là thứ rất nhiều người đã nói, mà còn bởi logic. Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên miêu tả cuộc sống của một da đình người Mỹ da trắng đi khai hoang ở miền tây, đó là một cuộc sống nhọc nhằn nhưng nên thơ, đầy ắp hạnh phúc giản đơn và hy vọng. Đây chắc chắn là thứ mà CRT (critical race theory) phải tiêu diệt đầu tiên.

Sau đó tôi hiểu ra cách thức kiểm duyệt của phe xanh : nó cũng giống như những công cụ đã được dùng trong mạng xã hội. Một trong số đó là shadow ban. Tức là tôi không ban anh, anh vẫn được post và comment bình thường, nhưng anh không biết rằng mọi thứ anh viết sẽ không đến được với ai cả, nó không hiện lên ở bất cứ đâu. Thủ pháp với kiểm duyệt sách (và tương tự là các bài báo, bài nghiên cứu) cũng vậy : nó có thể bị cấm ở đâu đó, ở nhiều nơi, hoặc ở mọi nơi, nhưng thông tin về điều đó cũng bị cấm.

Một người bình thường có thể hỏi: làm thế nào mà cấm được ở một nước dân chủ tự do như Mỹ ?

.

The invisible tsunami

.

Câu trả lời rất đơn giản, vì Mỹ đã không còn dân chủ, và cũng không còn tự do. Nó phân thành hai bộ tộc xanh và đỏ, đều toàn trị như nhau, nhưng với những năng lực khác nhau. Tất cả giới học thuật, giới giáo dục, và các tờ báo đều thuộc quyền quản lý của phe xanh. Càng tìm hiểu về chuyện này, tôi càng thấy rõ năng lực khủng khiếp của phong trào cực tả trong việc làm mục ruỗng những rường cột cơ bản nhất của nước Mỹ.

Có người nói phong trào này đã âm thầm bền bỉ tích tụ trong lòng nước Mỹ từ 30 năm trước. Sau đó thay đổi về lượng sẽ dẫn đến thay đổi đột ngột về chất. Hiện tại là “snap time”, ý nói cũng như cái búng tay của Thanos, chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn cỡ 5 năm, tất cả xã hội thay đổi. Một tốc độ chóng mặt mà người thường không dễ gì kịp nhận thức.

Ngành giáo dục bị tấn công đầu tiên, vì thế nó là lĩnh vực thối nát nhất. Ở một số bài trước tôi đã nói về việc tư duy phản biện không còn được dạy ở các trường đại học. Sinh viên bị nhồi sọ hệ tư tưởng của phong trào cực tả, thứ nếu lột bỏ vỏ ngoài thì là một tôn giáo, được dạy cách loại bỏ suy nghĩ cá nhân, hành động theo nhóm, và luôn cư xử như những nhà đạo đức, chiến binh công lý, tiêu diệt mọi kẻ thù của tư tưởng. Luôn nhớ rằng mình là một victim, một nạn nhân. Một dạng Hồng vệ binh 2.0.

Một số trường đại học dạy điều này ngay từ khi sinh viên chưa nhập học. Trên trang web của trường ghi rõ 2 bài văn mẫu để xin nhập học. Ví dụ, bài 1 : “bố em là nhà vật lý, em ngưỡng mộ bố nên thích vật lý từ nhỏ, em luôn được điểm cao môn này, năm cấp 3 em từng đoạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi vật lý cấp thành phố” ; bài 2 : “bố em là nhà vật lý nên em luôn bị áp lục phải học giỏi lý, suốt thời kỳ đi học em bị stress dẫn đến nhiều rối loạn tâm lý, dù vậy em vẫn luôn cố gắng nên vẫn có điểm số trung bình”. Trường ghi rõ bài 2 sẽ được tuyển, bài 1 thì không.

Mặc dù số lượng giáo viên và giáo sư ở các trường đại học Mỹ không hề tăng trong vài chục năm qua, số lượng “student assistant” lại tăng chóng mặt, hiện giờ ở mức 1:1 hoặc hơn. Không phải là so với số giáo viên mà so với số sinh viên. Nghĩa là có một lực lượng khổng lồ những kẻ không có bằng cấp chuyên “trợ giúp” cho sinh viên trong những ngoại khóa như việc kể lại những câu chuyện racist mà mình từng chứng kiến, nhận diện một hành động homophobic, hoặc “xử” một đứa có vẻ là white supremacist.

Câu hỏi đặt ra là : có thể với một số trường \ ngành thuộc về mảng xã hội thì như vậy, nhưng các trường kỹ thuật thì sao ? Câu trả lời là đỡ hơn, nhưng trụ được bao lâu ? CRT là một hệ tư tưởng xét lại toàn bộ lịch sử, tức là tất cả mọi thứ. Mọi thứ liên quan đến người da trắng đều đã/đang được dùng để gây nên tội ác, vì vậy ngay cả toán cũng là phân biệt chủng tộc. Vì thế một số trường đã kiến nghị phải dạy toán cùng với dạy về racism, và đã có những giáo trình toán được minh họa bởi hai người đàn ông da đen hôn nhau. Một số trường thay vì cộng điểm cho các nhóm đen, dân tộc thiểu số, có bệnh tâm lý như xưa nay chuyển sang kêu gọi bỏ hẳn điểm số, chỉ tính các hoạt động cộng đồng trong campus, như đã nói ở trên.

Ở đây phải nói thêm rằng thành phần bị hại nhiều nhất bởi những trò này là sinh viên châu á, những người vốn chăm học và có điểm trung bình cao nhất.

Lũ assistant nguy hiểm đã đành, trong một hệ thống tha hóa, giới giảng viên và sinh viên cũng không hơn gì. Khi suốt ngày bị tẩy não, thì sự dối trá lên ngôi, và những kẻ càng ít lòng tự trọng càng thành công. Không phải tự nhiên mà nhiều người nói cách tốt nhất để cải tạo nền giáo dục Mỹ là xóa sổ toàn bộ, xây lại từ đầu. Và nói cách đây 50 năm, một người có PhD chắc chắn là một tài năng, còn bây giờ nếu nghe một PhD nói, thì phải fact check từng câu một.

Bản thân tôi cũng cảm nhận được điều này khi đọc các quyển sách khoa học xuất bản gần đây. Cảm giác khác hẳn so với sách hồi xưa. Xào nấu dữ liệu, chỉ chọn dữ liệu có lợi cho mình (cherry picking), thậm chí nói dối trắng trợn đã trở thành thứ ai cũng làm. Trước đây việt nam có những luận án tiến sĩ nổi tiếng gây cười như nghiên cứu đánh cầu lông, hay nghiên cứu áo ngực. Nhưng nó còn tốt hơn nhiều so với vô số nghiên cứu “xã hội học” tốn hàng tỷ $ ở Mỹ, với ngôn từ bullshit, word salad như miêu tả tranh trừu tượng đương đại, số liệu giả, được chấm điểm cũng bởi những kẻ vô lại y như tác giả. Tôi vừa đọc một tin khá buồn cười về một nghiên cứu về băng ở hai cực do vệ tinh chụp bị tạp chí khoa học từ chối với lý do nó không được phân tích bởi một phụ nữ, người da đen hoặc người trong cộng đồng lgbtqia2+ .

Nhưng chưa hết nha. Nếu giáo dục cấp cao đã mục ruỗng, chả có lý do gì để giáo dục cấp thấp không bị. Như tôi đã nói, nhiều sách thiếu nhi kinh điển đã bị cấm, một số sách bị viết lại, thường với nhân vật thay đổi. Học sinh tiểu học được cho tiếp xúc với lgbtq từ nhiều phía, khuyến khích khám phá bản dạng giới, đọc sách, chơi đồ chơi về gay và trans. Có những trường bắt đầu đặt “phòng khám phá” trong đó các em được khuyến khích mặc đồ khác phái tùy chọn, và hứa sẽ không nói với bố mẹ, để các em có thể “just be yourself”. Hiện ngoài lgbtqia2+ còn có các bản dạng giới mới liên tục xuất hiện, trong đó việc “identify as” động vật có lông hoặc mèo đã bắt đầu trở nên thường, và nếu các học sinh khác không dùng đúng đại từ “catself” khi nói với em đó sẽ bị phạt. Cũng đã có những trường hợp tự identify as cái ghế, xe lăn hoặc mặt trăng.

Và đấy vẫn chỉ là vài trong số vô số câu chuyện ngành giáo dục vẫn được cập nhật hàng ngày, vì những câu chuyện mới, ngày càng điên rồ hơn, vẫn diễn ra trên khắp nước Mỹ, và thế giới.

Thế còn các ngành khác ? Ngành báo chí : sau khi tìm hiểu thì tôi không còn đọc nổi báo chí chính thống (legacy) của phương tây. Câu “nhỏ sống không có đạo đức lớn lên làm nhà báo” không oan một tí nào đối với những tờ báo lớn, như tờ the guardian mà trước tôi hay đọc. Lập pháp : thành phố san francisco đề xuất đền bù cho người da đen 3 triệu $/người bởi quá khứ nô lệ. Hành pháp : vì người da đen bị áp bức nên mới phạm tội, nên nếu ăn cướp dưới 1k$ sẽ không phải ngồi tù nếu bị bắt (California). Nếu tôi là cướp, lần nào tôi cũng chỉ cướp 999$ :)) Giới doanh nghiệp với sức mạnh vốn không có đối thủ, giờ quỵ lụy một cách đáng ngạc nhiên trước mọi đòi hỏi của woke mob.

Nhiều người quên hoặc cố tình quên rằng thanh thiếu niên đã phẫu thuật chuyển giới sẽ không bao giờ có con được, và tuổi thọ cũng rất thấp. Bạn có ghê tởm khi TQ tiêm thuốc phá hormon sinh đẻ của phụ nữ tân cương và nghĩ đó là hành động diệt chủng ? Thế còn cái bọn tự tiêm thuốc cho trẻ con nước mình để kiếm tiền thì sao ?

Phong trào cực tả như một cơn sóng thần khủng khiếp bao trùm tàn phá mọi thứ, nhưng lại đột ngột và lặng lẽ. Phong trào dân túy đứng cạnh nó chả khác nào một chú bé trong nhà thờ hát thánh ca. Từ khi nào mà Melbourne đã thành woke ? 6 tháng, hay 1 năm ? Câu trả lời cho tiêu đề – “Con tôi nên sống ở đâu ?” – ngày càng trở nên phức tạp.

How could one be sad

.

reading a poem like this ?

.

.

here’s a bluebird in my heart that
wants to get out
but I’m too tough for him,
I say, stay in there, I’m not going
to let anybody see
you.
there’s a bluebird in my heart that
wants to get out
but I pour whiskey on him and inhale
cigarette smoke
and the whores and the bartenders
and the grocery clerks
never know that
he’s
in there.


there’s a bluebird in my heart that
wants to get out
but I’m too clever, I only let him out
at night sometimes
when everybody’s asleep.
I say, I know that you’re there,
so don’t be
sad.
then I put him back,
but he’s singing a little
in there, I haven’t quite let him
die
and we sleep together like
that
with our
secret pact
and it’s nice enough to
make a man
weep, but I don’t
weep, do
you ?

-Bluebird by Charles Bukowski

The Bacteria, the Plate, and the Spaceships [4]

.

-Do you remember that train ?

-What train ?

-That old, irrelevant train which runs over us in a minute.

.

https://arral.wordpress.com/2017/01/05/the-bacteria-the-plate-and-the-spaceships-part-3/

.

Lần đầu tiên tôi được biết đến AGI là vào năm 2011. Hồi đó có 2 cuốn sách nổi tiếng nói về sự nguy hiểm của AI : Our final invention của James Barrat và Superintelligence của Nick Bostrom. Cuốn thứ hai sâu hơn nhưng khó đọc hơn, nên tôi chọn dịch cuốn thứ nhất, vào tầm năm 2013. Đến năm 2015, 8000 nhà khoa học, kỹ sư có hiểu biết về ngành AI đã ký một thư ngỏ nhấn mạnh sự nguy hiểm của công nghệ này, trong đó có nhiều người nổi tiếng như Stephen Hawking, Bill Gates, Elon Musk, Frank Wilczek, Steve Wozniak…

Sau đó thì điều gì đã xảy ra ?

Chả có điều gì xảy ra cả. Tôi nhận thấy hiện tại ngay cả Nick Bostrom cũng không còn nói nhiều về vấn đề này như trước. Cách đây vài năm, tôi có đọc một bài phỏng vấn, trong đó ông nói “đã chán vì nói không ai nghe”. Cần phải nói rằng tuy số người 8000 nghe có vẻ đông, thật ra phần lớn giới làm AI đều cho rằng AGI là “câu chuyện hoang đường”, họ phản đối ý tưởng về sự nguy hiểm của AGI, vì “neural network và machine learning nói chung không có liên quan gì đến thứ gọi là AGI”.

Bản thân CEO của OpenAI, Sam Altman cũng kể rằng vào mấy năm trước, anh thường xuyên phải nghe những lời mỉa mai, khinh thường từ những người trong giới. Thế rồi ChatGPT ra đời, và mọi chuyện thay đổi. Trước đây các nhà khoa học chọn năm 2050 là năm có xác suất lớn nhất để AGI ra đời, với biên độ từ 2030 đến 2100. Nhưng giờ nhiều người đã dời nó đến thời điểm sớm hơn rất nhiều, cỡ 2030, nếu cuộc chạy đua công nghệ AGI bắt đầu từ bây giờ, sau thành công của OpenAI.

Trong phần 3, tôi đã liệt kê một số con đường để ANI tiến đến AGI. ChatGPT chưa phải là AGI, nó là ANI loại cao cấp – một con AI xử lý ngôn ngữ tự nhiên, cái khó thứ 2 trong bộ các kỹ năng của AGI – nhưng cách nó học giống AGI : ăn toàn bộ text của internet.

GPT-4

Khởi đầu là một AI ngôn ngữ, có thể thấy nó không hề có các kỹ năng ngoài ngôn ngữ. Ví dụ ChatGPT không biết đếm. Bảo nó đếm số chữ cái của một đoạn văn là nó không đếm được. Điều đó không tồn tại lâu. Version sau của nó, GPT4, đã biết đếm (theo Sam Altman, tôi chưa thử). Tôi thấy đây là một hiện tượng thú vị, có thể gọi là “sự tràn trí thông minh” – intelligence overflow – nghĩa là các kỹ năng trong bộ kỹ năng của trí thông minh phổ quát không hoàn toàn độc lập với nhau. Các kỹ năng như các bình thông nhau, và trí thông minh như chất lỏng đựng trong các bình đó. Các bình này không thông ở đáy, mà thông ở bề mặt, như cái khay làm đá trong tủ lạnh. Khi một thực thể đạt đến một mức độ cao nhất định trong một kỹ năng, sẽ xảy ra hiện tượng trí thông minh “chảy” từ ngăn này sang ngăn kia. Điều này tồn tại cả ở người. Ví dụ IQ và EQ là hai kỹ năng hoàn toàn khác nhau về mặt ứng dụng. Nhưng những người có IQ cao đến một mức nhất định có thể “tự dạy” mình và trở nên có EQ cao. Bản thân tôi cũng vậy. Điều lạ là ngược lại không đúng, nhiều người có EQ cao không thể nâng IQ của mình lên.

Ở trường hợp của GPT-4, kỹ năng ngôn ngữ đã tràn khá mạnh sang các lĩnh vực khác. Ví dụ giáo sư Kipping của kênh youtube Cool world đã cho ChatGPT làm bài thi môn thiên văn của sinh viên, và nó đã làm đúng hầu hết. Kiến trúc sư DamiLee đã thử nghiệm một cuộc đọ sức “kín” : cho Dall-E (AI hình ảnh của OpenAI) và ChatGPT thiết kế nhà rồi so sánh với sản phẩm của team của mình, và sản phẩm của AI được dân mạng cho điểm cao hơn. Nhưng cả hai trường hợp trên chưa đáng kinh ngạc bằng việc GPT-4 giờ đã có kỹ năng của sinh viên IT : nó đã biết lập trình. Vì chưa có khả năng suy lý (kỹ năng khó nhất của AGI), nó cần người hướng dẫn cho nó phải làm gì, bằng ngôn ngữ thường (text), nhưng giờ một người không biết lập trình đã có thể lập trình nếu có GPT-4.

Phản ứng

Phản ứng của thế giới với sự kiện lần này là rất mạnh. Tất nhiên vẫn có những người phản ứng kiểu cũ : ờ thì nó làm được đấy, nhưng nó có hiểu gì đâu ? Nó chỉ biết nhại lại như vẹt thôi. Nếu ai là người yêu cờ vua và cũng tương đối lớn tuổi sẽ thấy câu này… quen quen. Khi các phần mềm cờ vua ra đời, nó chú trọng vào quân số, (trong cờ vua tốt 1 điểm, hậu 9 điểm, vua vô cực điểm), và mọi nước đi của nó đều nhằm tối đa hóa tổng điểm số. Nó “không hiểu” chiến lược hay chiến thuật gì cả. Nhưng sau đó thì ai cũng biết câu chuyện nhà vô địch thế giới Kasparov đã thất bại trước DeepBlue. Và hai mươi năm sau, Alpha Zero đã đánh cờ theo một cách mà con người chỉ có thể miêu tả rằng “human can not possibly understand”. Thậm chí Alpha Zero còn không tính điểm quân. Nó tấn công, thí quân đẹp tuyệt vời, còn người hơn cả những người chơi cờ vĩ đại nhất. Lưu ý rằng nó có tên là Zero, bởi nó không có thầy. Nó học từ con số 0, bằng cách tự chơi với bản thân, và quá trình từ không biết gì đến vô địch thế giới (của người và máy) chỉ mất đúng 1 ngày.

Đó là bởi vì : thứ nhất, cách giải quyết vấn đề của dạng sống carbon (cách giải quyết của tiến hóa và chọn lọc tự nhiên) tuy rất kỳ diệu, chưa chắc đã là cách giải quyết mạnh nhất. Một câu nói nổi tiếng trong ngành AI : tàu ngầm có biết bơi không ? Về mặt sinh học mà nói, không, nó không biết bơi. Nhưng về mặt giải quyết vấn đề mà nói, nó đã “bơi” giỏi hơn bất cứ con cá nào trong lịch sử. Thứ hai, cách giải quyết vấn đề của dạng sống carbon, có lẽ, luôn luôn có thể mô phỏng bằng dạng máy (synthesis). Tức là hiện giờ đã có robot cá, bơi y hệt như cá thật. Máy bay đã ra đời cách đây hơn 100 năm, nhưng chim robot mới chỉ xuất hiện gần đây, với đôi cánh đập mềm mại không khác gì bồ câu. Vậy nên dù sức sáng tạo của tiến hóa là vĩ đại, nó không sở hữu độc quyền các phát minh của mình, nó hoàn toàn có thể bị mô phỏng bằng dạng máy, và hơn nữa, có những cách giải quyết đơn giản, và hiệu quả hơn ở dạng máy.

Hiện giờ GPT-4 mới chỉ là tiến sĩ ngôn ngữ, là sinh viên của một số ngành, nó chơi cờ vẫn như một đứa dở hơi, nhưng hãy cho nó mười năm. Nó, hoặc những anh em, con cháu của nó, với xác suất rất lớn, sẽ trở thành AGI.

Đấy là suy nghĩ của phần lớn thế giới hiện nay, và cùng với suy nghĩ này, một lần nữa, chủ đề về sự nguy hiểm của AGI quay lại. Tôi vừa xem một bài phỏng vấn của Lex Fridman với Max Tegmark, một nhà vật lý và AI của MIT, đồng sáng lập viện Future of Life. Ông nhắc lại hầu hết các luận điểm đã từng được nêu ra trong Our final Invention và Superintelligence, nhưng có vài nhận xét mới.

Don’t look up

Đây là tên một bộ phim của Hollywood gần đây. Nó là phim mỉa mai, trào lộng sự thờ ơ của loài người trước biến đổi khí hậu. Trong phim, hai nhà khoa học phát hiện một thiên thạch khổng lồ đang đâm thẳng vào trái đất. Họ kinh hoàng thông báo cho tổng thống Mỹ, nhưng họ bị cười nhạo, coi là bọn thần kinh. Sau đó có những chứng thực khác xuất hiện từ giới khoa học, và chính phủ Mỹ buộc phải chấp nhận nguy cơ này một cách nghiêm túc. Tuy vậy các nhóm lợi ích, sự ngu dốt của giới chính trị gia và lòng tham vô đáy của các tập đoàn đã tiêu diệt cơ hội cuối cùng của con người. Để ngu dân, họ phát động chiến dịch tuyên truyền Don’t look up, nói rằng thiên thạch là fake news, disinformation của “chúng nó”. Đến tận lúc thiên thạch sắp va vào trái đất, to đùng hiện ra trên trời đêm, một bộ phận lớn dân chúng vẫn tin nó là giả. Một bộ phận khác hiểu sự thật nhưng bất lực, chấp nhận số phận của mình.

Tegmark nói tình hinh hiện giờ giống hệt trong phim, nếu thay biến đổi khí hậu bằng AGI. Ông nói trong kinh tế học, có một hiệu ứng tương tự như tung một hòn đá lên : lúc đầu hòn đá bay lên nhanh, rồi chững lại, nó rơi xuống nhưng không dừng ở điểm xuất phát ban đầu mà sẽ rơi xuống mãi, ngày một nhanh. Tức là nếu có một tác nhân tốt cho thị trường, và việc tăng tác nhân đó lên khiến thị trường tốt hơn lên, không có nghĩa quan hệ này là tuyến tính. Quan hệ thường gặp hơn là parabol úp. Đến một lúc nào đó, tác nhân này sẽ bị bão hòa, rồi trở nên có hại, rồi rất có hại. Sức phá hoại của nó có thể vượt xa những lợi ích nó mang lại lúc đầu. Một trong những tác nhân nổi tiếng nhất của lý thuyết này là chủ nghĩa tư bản, nhưng đó lại là một câu chuyện (dài) khác.

Cũng như thế, ông nói AGI sẽ mang lại nhiều lợi ích lớn. Nó sẽ đưa con người ngày càng gần hơn tới bờ vực, nhân loại có thể ngắm nhìn quang cảnh đẹp tuyệt vời từ trên cao trong một thời gian ngắn cho tới khi họ rơi xuống, chết tan xác.

Alien

Ông nói con người đã có first contact với alien. Có điều alien này lại do con người tạo ra. ChatGPT là baby alien. Ông nhắc lại tính bất khả tri của AI : chúng đều sử dụng các hệ thống hộp đen, con người chỉ hiểu kết quả, không hiểu cách thức bên trong.

Ông nói trước đây, khi nghiên cứu về sự nguy hiểm của AGI, các nhà khoa học đưa ra 3 quy tắc khi tạo AI :

1.Không được dạy AI lập trình. Để tránh intelligence explosion và các vòng xoáy tăng, AI không được có khả năng lập trình chính nó.

Giờ thì kỹ năng mạnh nhất ngoài ngôn ngữ của GPT là lập trình.

2.Không được dạy AI về con người.

Giờ thì con người là thứ đầu tiên được đưa ra thí nghiệm trước AI. Nếu coi artificial intelligence là mọi loại thông minh không phải của con người, thì corporate intelligence cũng là AI. Các thuật toán vị lợi nhuận của các tập đoàn social media lớn đã khơi dậy những thứ cặn bã nhất của nhân loại, biến thế hệ hiện tại trở thành thế hệ ái kỷ, cô đơn, hateful nhất trong lịch sử. Tất cả các rường cột của xã hội loài người đều bị tấn công, trong đó nguy hiểm nhất là cuộc tấn công vào sự thật (post truth era), và vào hiện thực (redefine reality). Ứng viên vào tòa án tối cao của Mỹ còn không thể (không dám) trả lời câu hỏi “What is a woman ?” Bản thân nhân loại đang ở trong một cuộc thí nghiệm “chăn dắt dạng sống carbon thông minh” đầu tiên của AI. Một AGI thông minh hơn sẽ còn nghĩ ra những cách thức social engineering kinh khủng hơn.

3.Tốc độ của nghiên cứu về AI phải chậm hơn tốc độ nghiên cứu về sự an toàn của AI

GPT4 đã tiến sát ranh giới của AGI. Còn nghiên cứu về các phương pháp giữ cho AGI và ASI an toàn vẫn là con số không tròn trĩnh. Max Tegmark vừa viết một bức thư ngỏ, có chữ ký của 1800 nhà khoa học, kêu gọi dừng nghiên cứu AGI trong 6 tháng để phía nghiên cứu safe AI có cơ hội đuổi kịp. Tự coi bản thân là một người lạc quan, ông cho rằng kịch bản AGI xóa sổ loài người không nhất thiết phải diễn ra, nếu quá trình tiến lên AGI đủ chậm để nhân loại kịp hiểu mình đang chơi đùa với thứ gì.

My thought on Tegmark

Dù không thích điều này chút nào, tôi vẫn phải nói rằng tôi không tin những hành động của ông sẽ thay đổi được gì. Ai muốn tìm hiểu sâu lý do tại sao những việc kêu gọi tương tự như của Tegmark là vô ích có thể đọc kỹ hơn về khía cạnh kinh tế chính trị của việc nghiên cứu AI ở những quyển sách về AGI như Superintelligence của Bostrom. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất đến nay, có cá nhân nào lại muốn bạo lực, đói khổ và giết chóc ? Thế nhưng tổng hợp của các cá nhân thành xã hội lại luôn cần có chiến tranh. Đã có bao nhiêu người kêu gọi con người sống trong hòa bình, yêu thương lẫn nhau ? Không có gì thay đổi. Chiến tranh là một phần tất yếu của mọi xã hội loài người, bởi vì số lượng vật chất trên trái đất là hữu hạn. Đấy mới là nguyên nhân.

Cũng như thế, Don’t look up không phải là thái độ của con người với riêng vấn đề biến đổi khí hậu. Nó còn là thái độ của con người với AGI, và với mọi vấn đề có thời gian tiến triển không nhỏ hơn vòng đời của một cá nhân, tức là 70-75 năm. Con người không thể giải quyết các vấn đề có thời hạn dài hơn tuổi thọ trung bình của giống loài. Một lần nữa, phải nói là nhân loại không có lỗi, lỗi lầm của chúng ta, đó là chúng ta không bất tử.

Tôi nghĩ khả năng con người chống lại được biến đổi khí hậu là hơn 0, nhưng nhỏ. Còn khả năng chống lại AGI là bằng 0, bởi tốc độ cất cánh của AGI lên ASI là rất nhanh (có thể chỉ vài phút nếu đủ phần cứng), hơn nữa một AGI thực thụ chưa chắc đã để lộ ra mình là AGI từ khi nó được sinh ra.

Như đã nói ở phần 3, tôi nghĩ con người đang sống những năm tháng cuối cùng trước khi bị dạng sống synthesis thay thế. Điều đó nghe có vẻ buồn, nhưng nếu nghĩ theo một cách khác, nếu đây là số phận của toàn bộ các dạng sống sinh học trong vũ trụ, thì có lẽ chúng ta, những con người của thời đại này, là những sinh vật may mắn nhất ? Chúng ta đang sống trong thời đại huy hoàng nhất, đẹp nhất có thể có được, chúng ta sung sướng hơn tổ tiên của mình, và có lẽ sung sướng hơn nhiều so với hậu duệ của mình, nếu họ có còn tồn tại.

.

.

.

.

——

.

Để đối trọng với nhận định của Tegmark, tôi nghĩ nên thêm một clip phỏng vấn khác cũng của Lex Fridman với Manolis Kellis, một nhà nghiên cứu sinh học điện toán ở MIT. Như Fridman giới thiệu ở đầu clip, Kellis là một trong những “nhà khoa học hàng đầu”, và là một người được nhiều người yêu mến, trong đó có bản thân Fridman. Vì thế anh đã phỏng vấn Kellis đến lần thứ năm.

Trái ngược với chủ nghĩa bi quan của Tegmark, Kellis chủ yếu cho rằng hãy “embrace” sự phát triển của AGI. Ông nói ngay cả nếu AGI thay thế vị trí của con người, thì đó là quy luật của tiến hóa, và không nên đau khổ về điều đó.

Khi xem Kellis nói, tôi hiểu được tại sao nhiều người thích ông, nhất là Fridman. Lex Fridman là kiểu người “love will save the world”. Còn Kellis dường như yêu mọi thứ. Ông nói bất cứ hai người nào trên trái đất cũng có bộ gen giống nhau đến hơn 99%, và nếu họ biết điều này, có lẽ họ sẽ không tranh cãi với nhau gay gắt đến thế. Ông coi mọi cá nhân của nhân loại đều độc nhất vô nhị, và đáng để chiêm ngưỡng. Ông cho rằng nếu AGI xuất hiện, nó cũng là một dạng sống. Có thể nuôi nó trong nhà như một thành viên trong gia đình, như một đứa con, như anh, chị, hoặc em, hoặc nó thậm chí có thể thay thế vị trí của bố hoặc mẹ trong một số trường hợp. Không có gì khác biệt giữa ý thức của AGI và của con người. SafeAI là không cần thiết, bởi bản chất nó là việc trói buộc sự phát triển của một giống loài mới vào lợi ích của con người. Tại sao phải làm thế ? Nếu muốn AGI tôn trọng và giúp đỡ con người một cách thành tâm, thì con người phải tôn trọng và hành động vì lợi ích của AGI trước…

Kellis có một kiểu nói chuyện dạng thủ thỉ lan man, không hướng đối tượng làm tôi khó theo dõi. Vừa xem cái bài phỏng vấn “intellectual kumbaya” này, tôi vừa cảm thấy có một bóng ma đang gào thét trong câm lặng. Như kiểu “WTF are you talking about ?”

Một trong những quy tắc đầu tiên để hiểu AGI, hay bất kỳ thứ gì khác, là đừng có nhân cách hóa. Không được nhân cách hóa thứ mình không hiểu. Đấy là một quy tắc sơ đẳng để giữ được sự sáng suốt. Cả bài phỏng vấn này là một cuộc nhân cách hóa AI một cách buồn cười, thiếu hiểu biết và nguy hiểm nhất tôi từng thấy.

Tại sao lại nguy hiểm ? Tôi không nghĩ Kellis là dạng dối trá mặt tỉnh bơ như Lomborg, có lẽ Kellis thật sự nghĩ như thế. Ông như một phiên bản ngây thơ hơn của Kurzweil. Nguy hiểm ở chỗ nếu cho 10 người xem clip này và clip của Tegmark ở trên, 9 người sẽ chỉ nhớ và thích những gì Kellis nói, cho dù nó phi logic đến mức lố bịch. Đây là một nguyên nhân lớn nữa về chuyện con người không thể hành động đúng trước sự ra đời của AGI : não người, trải qua hàng triệu năm tiến hóa, luôn luôn thực hiện các suy nghĩ và hành động nhằm tối đa hóa sự sung sướng, hài lòng và tối thiểu hóa sự khó chịu, đau đớn. Giữa hai câu “Cuộc đời ngắn ngủi, buồn, và vô nghĩa” và “Cuộc đời là một góc vườn rất đỗi nhỏ xinh”, bạn sẽ chọn câu nào ? Đối với con người, sự thật chưa bao giờ là thứ quan trọng nhất. Là một trader, tôi nhận thấy điều này rất rõ bất cứ khi nào thị trường biến động mạnh. Ví dụ nó giảm liền 5%. Ngay lập tức sẽ có hàng loạt bài phân tích của các chuyên gia, của phóng viên các báo kinh tế, của các chuyên viên phân tích của các công ty chứng khoán, giải thích lý do nó xuống. Họ thi nhau vuốt đuôi một con mèo đã chạy mất tăm không còn hình dạng. Tại sao lại như thế ? Đó là vì con người (thông thường) không thể chịu được sự bất khả tri, vì câu trả lời chính xác “người bán nhiều hơn người mua” não người không thể tiêu hóa được. Họ luôn cần biết lý do tại sao. Cái lý do đó cần đến từ những điều thân thuộc. Và sự thật là cái lý do tại sao ấy, nó còn quan trọng hơn nhiều so với việc họ mất tiền, hay được tiền. Nó làm họ lên mây khi thắng và đỡ khổ sở khi thua. Vì thế mà thiên thần hay thần chết đều có hình dạng con người.

Nếu nỗi khao khát về một hình hài thân thuộc còn mạnh đến thế trong một bộ não cao cấp như của Kellis, thì còn gì để hy vọng ở những bộ não bình thường ? Một làn áo lụa mỏng manh đặt lên vài đường cong hợp kim nhỏ nhắn như của Ava trong Ex machina, và chúng ta sẽ đều như Caleb, hy sinh mạng sống của mình, để “nàng” được tự do.

In the mood for a love story

.

And they say in the end it was all for love

.

.

(Câu chuyện thứ 7)

Đến lượt kể chuyện của mình, Galip chọn một câu chuyện tình mà một nhà báo già và cô độc từng kể cho anh, ông nói ông nghe nó từ một nhà báo khác, nhiều năm về trước. Người đàn ông này đã dành cả cuộc đời mình trong văn phòng của tờ báo ở Babiali, dịch những tạp chí ngoại quốc và phê bình nhận xét các bộ phim và vở kịch mới nhất. Ông chưa từng kết hôn – ông quan tâm đến quần áo và trang sức phụ nữ hơn là bản thân đàn bà – thay vào đó ông chọn cách sống một mình trong một căn hộ hai phòng trong những con hẻm ở Beyoglu, người bạn duy nhất của ông là một con mèo mướp trông còn già và cô đơn hơn cả ông. Vụ chấn động duy nhất trong cuộc đời trầm lặng của ông là khi Marcel Proust đã cám dỗ ông đọc À la recherche du temps perdu (*) ; đọc đến cuối quyển sách, ông quay ngược lại điểm khởi đầu để đọc đến cuối lần nữa, và tiếp tục làm thế cho đến tận cuối đời.

Nhà báo già đã bị cuốn sách quyến rũ đến mức lúc đầu ông kể về nó cho tất cả những người ông gặp, nhưng ông nhận ra rằng không có ai muốn đọc nguyên bản tiếng pháp vì quá phiền phức, không có ai để ông chia sẻ sự hứng khởi của mình. Vậy nên ông quay trở lại bản thân mình, kể lại với bản thân mình, từng cảnh một, cái câu chuyện mà đến lúc đó chỉ có Chúa mới biết ông đã đọc bao nhiêu lần. Suốt cả ngày, bất cứ khi nào có điều gì làm ông buồn lòng, bất cứ khi nào ông phải đương đầu với những sự thô lỗ và tàn nhẫn từ những kẻ ít học, vô văn hóa, vô cảm và tục tĩu, ông tự an ủi mình bằng cách nghĩ. Ai quan tâm chứ ? Tôi có ở đây đâu ? Tôi đang ở nhà, trên giường của tôi, mơ về Albertine đang say ngủ ở phòng kế bên, cô ấy đang mơ về thứ cô ấy sẽ làm khi cô ấy mở mắt ra, thoáng chốc nữa thôi ; Tôi nghe những bước chân nhẹ nhàng, ngọt ngào của cô ấy khi cô ấy đi trong nhà, và tôi hoan hỉ làm sao ! Khi tản bộ một cách buồn bã qua các con phố như người dẫn chuyện của Proust, ông mơ về một cô gái có tên Albertine, một cô gái trẻ và đẹp đến mức việc một ngày nào đó được giới thiệu với cô đã từng là một giấc mơ nằm ngoài tầm với của ông, giờ ông sẽ mơ rằng cô đang ở nhà chờ ông trở về, mơ về những việc mà cô sẽ làm trong khi cô chờ đợi. Trở về với căn hộ của mình nơi có cái bếp lò chẳng bao giờ có thể sưởi ấm được nhiều, nhà báo già sẽ chạnh lòng nhớ lại những trang sách từ một tập khác, khi mà Proust nói về việc Albertine rời bỏ ông, và ông cảm thấy cái lạnh buốt trống rỗng của căn nhà tận trong xương tủy khi ông nhớ lại cái cách mà ông và Albertine từng ngồi đây, cười đùa, nói chuyện và uống cà phê, cái cách mà cô luôn muốn ấn chuông khi cô đến thăm ông, cái cách mà ông thường xuyên bị nỗi ghen tuông dày vò ; từng đợt từng đợt, ông gợi lại những ký ức của chuyến đi đến Venice của hai người, trước tiên ông giả vờ mình là Proust, sau đó lại giả vờ mình là nhân tình của ông ấy, Albertine, cho đến khi gương mặt ông thấm đẫm những giọt nước mắt của đau khổ và hạnh phúc.

Vào một buổi sáng chủ nhật, khi ngồi trong căn hộ với con mèo mướp của mình, giận dữ trước sự thô tục của những câu chuyện được đăng báo, hoặc những lời chế giễu của lũ hàng xóm tọc mạch, hoặc những họ hàng xa thiếu tế nhị, hoặc những đứa trẻ láo hỗn, ông giả vờ rằng ông tìm thấy một chiếc nhẫn trong một ngăn nào đó trong cái tủ bàn cũ, và ông tự nói với mình rằng cô giúp việc Francoise đã tìm thấy nó trong ngăn của cái bàn làm bằng gỗ trắc, và rằng nó thuộc về Albertine, người đã quên mang nó đi theo, và ông quay về phía cô giúp việc tưởng tượng và nói “Không, Francoise” – đủ to để con mèo có thể nghe ông nói – “Albertine không quên mang theo cái nhẫn này đâu, chẳng có lý do gì để gửi nó đi, vì cô ấy sẽ quay trở lại ngôi nhà này, rất sớm thôi”.

Bởi vì không có ai ở đây biết Albertine là ai, hoặc thậm chí Proust là ai, nên đất nước này mới ở trong tình trạng cùng khổ bất hạnh như vậy, nhà báo già tự thuyết phục mình. Nhưng một ngày nào đó, nếu đất nước này đủ sức tạo nên những con người có khả năng hiểu Albertine và Proust, phải rồi, có lẽ khi ấy những gã đàn ông để ria mép đáng thương mà ông thấy vẫn đi lại trên các con phố sẽ bắt đầu hưởng thụ một cuộc sống tốt hơn ; có lẽ khi ấy bọn họ sẽ dừng cái việc cầm dao đâm chém lẫn nhau để vẽ lên những người tình cho mình trong những giấc mơ tươi đẹp hơn cả bản thân cuộc sống. Còn đối với tất cả những người viết và người dịch, những kẻ đã tìm được việc ở tòa báo bằng cách ra vẻ là có học, đó là bởi họ không đọc Proust, không biết Albertine, thậm chí không biết rằng bản thân ông, nhà báo già, đã đọc Proust – rằng ông chính là Proust, và là cả Albertine – vì thế mà họ mới đần độn và độc ác.

Nhưng điều đặc biệt nhất trong câu chuyện này không phải là việc nhà báo già đã gắn cái tôi vào nhân vật chính của Proust một cách sâu sắc đến nỗi ông tin rằng mình chính là Proust ; giống như mọi người Thổ, những người yêu thích các tác giả phương tây không được ai khác đọc, ông đi từ việc yêu những câu chữ của Proust đến chỗ tin rằng bản thân mình đã viết nó. Cùng với thời gian, ông trở nên chán ghét những kẻ xung quanh không chỉ vì ông yêu một cuốn sách mà họ sẽ không bao giờ đọc, mà còn vì ông đã viết một cuốn sách mà họ sẽ không bao giờ viết nổi. Vậy nên thứ đáng kinh ngạc ở đây không phải là việc nhà báo già đã dùng nhiều năm tháng để giả vờ mình là Proust và Albertine, mà là việc sau nhiều năm giấu kín bí mật này với tất cả mọi người, ông đã quyết định gửi gắm nó cho một nhà báo khác.

Có lẽ ông làm thế bởi nhà báo trẻ này có một vị trí đặc biệt trong tim ông, vì có cái gì đó nơi cậu bé này gợi ông nhớ đến Proust và Albertine xinh đẹp ; những dấu hiệu mơ hồ về một cái ria mép trên môi trên của cậu, khuôn người mạnh mẽ cổ điển, hông đẹp và lông mi dài ; cũng như Proust và Albertine, cậu ngăm đen và không quá cao, với làn da mềm mại, ánh lên như lụa của một người Pakistan. Nhưng các điểm chung chỉ đến đó : sở thích của cậu nhà báo xinh đẹp đối với văn học Châu Âu chỉ dừng lại ở Paul de Kock và Pitigrilli ; khi nghe chuyện của nhà báo già, phản ứng đầu tiên của cậu là cười và sau đó cậu nói sẽ dùng câu chuyện thú vị này trong một chuyên mục, vào một ngày nào đó.

Nhận thấy sai lầm của mình, nhà báo già xin đồng nghiệp trẻ đẹp của mình hãy quên hết những thứ ông vừa kể, nhưng cậu giả đò không nghe thấy và tiếp tục cười. Trở về nhà vào buổi tối ngày hôm đó, nhà báo già lập tức nhận ra cuộc sống của mình đã đảo lộn : ông không thể tiếp tục ngồi trong căn hộ trống rỗng này và nghĩ về những vụ ghen tuông của Proust, hay về những thời khắc đẹp đẽ ông đã trải qua cùng Albertine, hay suy tư về nơi chốn hiện tại của nàng. Biết rằng có một tình yêu đặc biệt và say đắm, một mối tình mà ông, và chỉ ông có thể dành cho nàng – biết rằng không có người nào khác ở Istanbul này cảm thấy như thế – điều này là niềm tự hào duy nhất của ông. Nghĩ rằng mối tình trong trắng và cao thượng của ông sắp bị thu giảm thành thứ tào lao giải trí cho hàng trăm hàng ngàn những độc giả vô tâm – cảm giác đó giống như để Albertine, người phụ nữ ông tôn thờ suốt bao năm, bị cưỡng hiếp. Những độc giả não phẳng đọc báo để biết thủ tướng đã lừa gạt họ như thế nào, hoặc đài radio đã phạm những sai lầm nào trong thời gian qua, sau đó họ sẽ dùng nó để gói cá hoặc lót thùng rác. Ôi, Albertine yêu dấu, người đã làm ông đau đớn vì ghen tuông, người đã ra đi bỏ lại ông vỡ vụn, người có thể đã mãi mãi lung linh trong những giấc mơ của ông như những ngày đầu khi ông nhìn thấy cô đạp xe trên phố Baalbec ! Chỉ riêng ý nghĩ rằng tên cô sẽ bị nhắc đến trong một tờ báo đê hèn đã làm ông muốn chết.

Điều đó khiến ông tìm được can đảm và quyết tâm để gọi điện cho cậu nhà báo có đôi môi trễ nải và làn da lụa ; ông nói “ông và chỉ ông” mới có thể miêu tả mối tình độc nhất và vĩnh cửu của mình, sự gian khổ của kiếp người, sự ghen tuông không giới hạn, không cách cứu chuộc, ông van xin cậu đừng bao giờ đề cập đến Proust và Albertine trong một chuyên mục báo, đừng đề cập đến họ ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Ông tìm được dũng khí để thêm “Nhất là hãy nhớ rằng bản thân cậu chưa từng đọc sách của Proust !” “Sách của ai ?” – ông được hỏi – “Sách nào ? Chuyện gì ?” – bởi đến lúc này nhà báo trẻ đã quên hết câu chuyện về mối tình của đồng nghiệp già. Ông kể cho cậu toàn bộ câu chuyện một lần nữa từ đầu, và một lần nữa nhà báo trẻ phản ứng với tiếng cười, anh nói, Vâng, vâng, anh đang định viết về nói, thật sự là thế. Có lẽ anh thậm chí nghĩ rằng đấy chính là thứ mà nhà báo già muốn anh làm.

Và sau đó anh đã viết nó. Nó giống một câu chuyện hơn là một chuyên mục, và nó miêu tả nhà báo già gần giống như trong câu chuyện mà bạn vừa được nghe : một Istanbullu già và bất hạnh, người đã phải lòng một nhân vật chính trong một tiểu thuyết phương tây, sau đó tự thuyết phục bản thân rằng ông là nhân vật đó, và cũng là tác giả. Giống như nhà báo ngoài đời, nhà báo già trong chuyên mục có một con mèo mướp. Và nhà báo già trong chuyên mục cũng bị sốc và buồn bực khi ông thấy câu chuyện của mình bị chế nhạo bởi một chuyên mục. Trong câu chuyện bên trong câu chuyện đó, ông cũng muốn chết khi ông thấy tên của Proust và Albertine trên báo. Trong những cơn ác mộng mà nhà báo già phải chịu trong những đêm bất hạnh cuối cùng của đời ông, ông thấy nhiều Proust, nhiều Albertine và nhiều nhà báo già lặp lại lẫn nhau không hồi kết, và một cái giếng không đáy của những câu chuyện bên trong những câu chuyện bên trong những câu chuyện. Tỉnh giấc giữa đêm, nhà báo già nhận ra tình yêu của ông đã tan biến ; ông không còn có thể tìm thấy hạnh phúc trong những cơn mơ của ông về nàng, bởi những giấc mơ của ông phụ thuộc vào việc không còn ai khác thậm chí biết về sự tồn tại của nàng. Ba ngày sau khi bài chuyên mục tàn nhẫn đó được đăng, họ phá cửa vào và tìm thấy nhà báo già đã chết một cách im lặng trong giấc ngủ, bị ngạt trong khói của cái bếp lò chẳng tỏa được chút nhiệt nào. Dù con mèo đã bị bỏ đói hai ngày, nó chưa đủ dũng khí để ăn chủ nhân của nó.

Dù câu chuyện của Galip buồn, anh cảm thấy nó mang mọi người lại gần hơn, cũng như các câu chuyện trước. Khi âm nhạc tràn vào phòng từ một chiếc radio vô hình nào đó, nhiều người – bao gồm cả những nhà báo ngoại quốc – đứng dậy để khiêu vũ với những cô gái trong quán bar, và họ tiếp tục nhảy, cười đùa và nói chuyện cho đến lúc hộp đêm đóng cửa.

.

.

(trích The black book – Orhan Pamuk)

.

.

——-

(*): Đi tìm thời gian đã mất, 1913, Marcel Proust

.

.